Luận án Đặc điểm ngoại hình, đa hình gen và ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn lọc cải thiện năng suất sinh sản của gà nòi

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 197 trang
  • Lượt xem : 4
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đặc điểm ngoại hình, đa hình gen và ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn lọc cải thiện năng suất sinh sản của gà nòi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Việt Nam được coi là một trong những cái nôi thuần hóa động vật với tập
đoàn gia súc, gia cầm phong phú (Lê Viết Ly, 1994). Các giống gia cầm bản
địa có khả năng thích ứng tốt với điều kiện thời tiết khí hậu và chế độ dinh
dưỡng thấp (Nguyễn Bá Tiếp, 2011). Bên cạnh đó, chúng còn cho chất lượng
thịt và trứng thơm ngon phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng nội địa và có
tiềm năng xuất khẩu. Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện
nay các giống gà được nuôi chủ yếu là: gà Nòi, gà Ta, gà Tàu vàng, gà Tam
Hoàng, trong đó gà Nòi được nuôi phổ biến nhất. Tuy nhiên, giống gà này
vẫn còn tồn tại các khuyết điểm như con giống bị lai tạp nhiều, tăng trưởng
chậm và khả năng sinh sản thấp. Theo kết quả điều tra thực tế cho thấy, đa số
các nông hộ đều nuôi gà Nòi theo phương thức cổ truyền, gà mẹ đẻ tự ấp và
nuôi con, năng suất trứng khoảng 40-50 trứng/mái/năm và tỷ lệ ấp nở khoảng
70-80% (Nguyễn Văn Quyên, 2010). Vì vậy, việc cải thiện khả năng sinh sản
ở gà Nòi là vấn đề cấp thiết nhằm phát triển ngành chăn nuôi gia cầm ở
ĐBSCL.
Trong chăn nuôi gia cầm, năng suất sinh sản là một chỉ tiêu kinh tế quan
trọng và bị chi phối bởi các yếu tố môi trường, thành phần dinh dưỡng trong
thức ăn (Liu et al., 2004; Lewis and Gous, 2006) và nội tiết (Kim et al., 2004).
Nhiều nghiên cứu cho thấy các yếu tố nội tiết liên quan đến năng suất sinh sản
được điều khiển bởi nhiều gen khác nhau (Emsley, 1997; Luo et al., 2007)
như: gen Prolactin (Cui et al., 2006), Vasoactive Intestinal Peptide (Li et al.
2009; Caldwell et al., 1999; Zhou et al., 2010), gen Bone Morphogenntic
Poteins (Zhang et al., 2008), Neuropeptide Y (Fatemi et al., 2012), Melatonin
Receptor (Li et al., 2013). Việc áp dụng các kết quả này nhằm cải thiện khả
năng sinh sản của gà Nòi có thể đẩy nhanh tốc độ và nâng cao sự đồng đều của
quá trình chọn giống.
Mặt khác, ở gà Nòi rất ít các nghiên cứu về di truyền ở mức độ phân tử
và hầu như chưa có một công bố nào về tính đa dạng di truyền cũng như vai
trò của một số gen ứng viên liên quan đến tiềm năng sinh sản của dòng gà địa
phương này. Vì vậy, việc nghiên cứu đa hình di truyền và sử dụng chỉ thị phân
tử trong chọn lọc để nâng cao các tính trạng năng suất sinh sản là cần thiết.
Chính vì những lý do trên đề tài “Đặc điểm ngoại hình, đa hình gen và
ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn lọc cải thiện năng suất sinh sản của
gà Nòi”