Luận án Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Quảng Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 171 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Chuyển dịch cơ cấu (CDCC) ngành kinh tế là một chủ đề rất đƣợc quan tâm bởi nhiều nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách. CDCC ngành kinh tế phản ánh tình hình phân bổ nguồn lực của nền kinh tế, quyết định năng lực và sản lƣợng của nền kinh tế. Chính vì vậy trong lý thuyết kinh tế CDCC ngành kinh tế là một tiêu chí trong đánh giá sự phát triển của nền kinh tế. Có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam và thế giới về chủ đề này. Các nghiên cứu của thế giới từ lâu đã bàn tới vấn đề này. Nền tảng lý thuyết cơ bản của các nghiên cứu này chính là Lý thuyết kinh tế Cổ điển, Tân Cổ điển. Nhƣng đi chuyên sâu thì phải đề cập tới một loạt các công trình sau này. Chẳng hạn quy luật tiêu dùng của A.Engel kết hợp với Quy luật tăng năng suất lao động của A. Fisher (1935) nhƣ cơ sở nền tảng cho các nghiên cứu về sau về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Mô hình hai khu vực của Lewis, A. W. (1954) và sau này là Harry Oshima (1986) là nền tảng lý thuyết về CDCC từ nông nghiệp sang công nghiệp. Nghiên cứu của Walter Rostow (1960) và của Hollis Chenery (1974) lại xem xét CDCC kinh tế gắn liền với phát triển kinh tế. Ngoài ra còn nhiều nghiên cứu khác bàn về chủ đề này. Một loạt nghiên cứu thực nghiệm gần đây nhƣ nghiên cứu của Patrick Quill và Paddy Teahon (2010) và của Muhamed Zulkhibri, Ismaeel Naiya; Reza Ghazal (2015) cũng xem xét chủ đề này trong mối quan hệ với tăng trƣởng kinh tế. Các nghiên cứu của Việt Nam cũng rất nhiều, nhƣng phần lớn là các nghiên cứu thực nghiệm để kiến nghị cho hoạch định chính sách. Đó là các công trình của Lê Du Phong và Nguyễn Thành Độ (1999), Nguyễn Quang Thái (2004), Bùi Tất Thắng (2006), Nguyễn Thị Tuệ Anh và các cộng sự (2007) hay Bùi Quang Bình (2010).
