Luận án Chế tạo và nghiên cứu tính chất vật liệu nanocompozit trên cơ sở polyetylen và nano clay biến tính silan
- Người chia sẻ :
- Số trang : 140 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chế tạo và nghiên cứu tính chất vật liệu nanocompozit trên cơ sở polyetylen và nano clay biến tính silan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Vật liệu nanocompozit là loại vật liệu compozit mới đã và đang được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước chú trọng nghiên cứu và ứng dụng, do có nhiều tính năng ưu việt như: tính chất cơ học cao, ổn định kích thước, thẩm thấu khí, hơi ẩm và các hợp chất hydrocacbon thấp, bền nhiệt, chịu bức xạ tử ngoại, chống cháy tốt và phân hủy sinh học nhanh [37,94]. Vì vậy, vật liệu nanocompozit được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực: giao thông, thông tin liên lạc, điện, điện tử, xây dựng và vật liệu chống cháy. Một trong các loại vật liệu nanocompozit đã và đang được quan tâm nghiên cứu hiện nay là vật liệu nanocompozit nền polyme được gia cường bằng khoáng sét ở kích thước nano (nanocompozit polyme/nano-clay). Đây là hướng nghiên cứu được chú trọng nhiều do kết hợp được những tính chất ưu việt của cả hợp chất vô cơ, lẫn hữu cơ cũng như nguyên liệu clay rẻ tiền, sẵn có trong tự nhiên. Theo các tài liệu nghiên cứu đã công bố thì các tính chất như: độ bền, mô đun đàn hồi, khả năng chịu nhiệt, không thấm khí, nhẹ, chống cháy của vật liệu nanocompozit polyme/nanoclay có tính năng vượt trội hơn so với nanocompozit gia cường bằng các hạt có kích thước khác nhau [67]. Trong tự nhiên có nhiều loại khoáng sét, song loại khoáng sét hay được sử dụng nhiều nhất là montmorillonit (MMT). Đây là loại khoáng sét thuộc nhóm smectit. Sở dĩ MMT hay được dùng do cấu trúc đặc biệt của nó khác hẳn so với các loại khoáng sét khác như: khoảng cách giữa các lớp lớn và các ion trong khoáng sét dễ thay thế bằng một ion khác. Vì vậy, người ta dễ dàng biến tính MMT bằng nhiều hợp chất hữu cơ khác nhau để tạo ra sự tương hợp giữa khoáng sét và polyme nền [67,111].
