Luận án Can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về đào tạo – Tư vấn kinh doanh: Phát triển mô hình logic và đánh giá tác động thực nghiệm ở Việt Nam

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 333 trang
  • Lượt xem : 14
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_can_thiep_ho_tro_doanh_nghiep_nho_va_vua_ve_dao_tao.docx
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về đào tạo – Tư vấn kinh doanh: Phát triển mô hình logic và đánh giá tác động thực nghiệm ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

1.1.2 Nhu cầu của Chính phủ Việt Nam cũng như của cộng đồng học thuật về đánh giá tác động của can thiệp hỗ trợ đào tạo-tư vấn kinh doanh cho SMEs
a. Can thiệp hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn kinh doanh ở Việt Nam là một chương trình quan trọng.
Thứ nhất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (viết tắt là SMEs) chiếm tỷ trọng lớn về số lượng trong nền kinh tế và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước nhưng SMEs đã gặp rất nhiều khó khăn sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu (Rand & Tarp 2020). Thật vậy, hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam là DN có quy mô nhỏ và vừa (Xem Hình K.1 ở Phụ lục K); SMEs cũng có vai trò rất quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển và đóng góp vào ngân sách nhà nước (Chính phủ 2010b). Theo kết quả điều tra của của GSO (2013a), vào thời điểm 31/12/2011, thời điểm vừa mới ban hành Thông tư liên tịch số 05/2011, số lượng doanh nghiệp của Việt Nam là 324.691; nếu xét theo tiêu chí lao động, số lượng SMEs là 316.941 (gấp 2,64 lần so với năm 2006), chiếm tỷ lệ 97,6% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước; phần còn lại là số lượng doanh nghiệp lớn, 7.750, chỉ một tỷ lệ rất nhỏ là 2,4%. Hình K.1 (Phụ lục K) thể hiện bản đồ phân bố các SMEs ở các tỉnh thành phố của Việt Nam vào thời điểm 31/12/2011 (năm cơ sở của can thiệp được lựa chọn để đánh giá).
Tuy nhiên, trong bối cảnh chịu ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu, khu vực SMEs ở Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. CIEM (2010) cho biết có 65% doanh nghiệp nhỏ và vừa được điều tra cho rằng khủng hoảng kinh tế toàn cầu có ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, SMEs cần có những hỗ trợ từ phía nhà nước, trong đó có những hỗ trợ về đào tạo kinh doanh.Trong số các SMEs xét theo tiêu chí lao động, số lượng DN vừa là 6853 DN, chiếm 2,1%; Số lượng DN nhỏ là 93356 DN, chiếm 28,8%; và số lượng DN siêu nhỏ là 216732 DN, chiếm tỷ lệ 66,8%. Số liệu ở năm 2011 là thời điểm trước năm diễn ra can thiệp mà được đánh giá tác động định lượng ở nghiên cứu này. Năm can thiệp là 2012.