Luận án Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi lợn đến chất lượng phúc lợi động vật và năng suất chăn nuôi ở một số tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng
- Người chia sẻ :
- Số trang : 151 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi lợn đến chất lượng phúc lợi động vật và năng suất chăn nuôi ở một số tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trong chăn nuôi lợn công nghiệp, chuồng trại lợn nái mang thai là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất tại các cuộc thảo luận về phúc lợi động vật. Chuồng cũi cá thể để nuôi lợn nái mang thai đƣợc cho là có liên quan đến các vấn đề phúc lợi kém vì hệ thống chuồng nuôi không đáp ứng đƣợc phúc lợi động vật do bị ngăn cản sự vận động, lợn chỉ có thể đứng lên, nằm xuống mà không thể quay lại, hạn chế thể hiện các tập tính tự nhiên và gây ra các phản ứng stress mãn tính (Boyle et al., 1999; Lawrence et al., 1994). Trƣớc những quan ngại về ảnh hƣởng bất lợi của sự giam hãm lợn nái trong cũi cá thể, hạn chế môi trƣờng nuôi, nhiều nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, các nhà hoạch định chính sách cũng nhƣ cộng đồng ngƣời tiêu dùng ngày càng quan tâm đến việc kêu gọi giải pháp thay thế chuồng nuôi mới nhằm cải thiện vấn đề phúc lợi động vật cho lợn nái mang thai (Edwards et al., 2014; Ohl and Staay, 2012; Sandilands and Petherick, 2006; Verdon et al., 2015). Chính vì vậy, việc cấm nuôi nhốt lợn nái trong cũi đã dần đƣợc luật hóa, đầu tiên áp dụng ở Thụy Điển (1994), tiếp theo là ở Anh vào năm 1999 (CWFT, 2000), Tasmania (Úc) và ở New Zealand (2010). Ở Mỹ, từ năm 2006 đến nay, đã có nhiều bang thông qua điều luật cấm nuôi lợn nái trong cũi (HSUS, 2013). Đặc biệt, năm 2001, luật pháp Châu Âu đã ban hành chỉ thị từ 01/01/2013 bắt buộc tất cả các trang trại phải sử dụng hệ thống nuôi lợn nái theo nhóm, chỉ cho phép nuôi lợn nái trong cũi 4 tuần sau khi phối giống (EU, 2001). Trƣớc các quy định nhƣ vậy, nhiều nhà khoa học và nhà quản lý cho rằng hệ thống nuôi nhóm là giải pháp thay thế và đã đƣợc nhiều quốc gia áp dụng. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại cho rằng bên cạnh những lợi ích mà chuồng nuôi nhóm đem lại nhƣ lợn đƣợc di chuyển tự do, đƣợc vận động, đƣợc thể hiện các tập tính tự nhiên thì lợn nái nuôi nhóm thƣờng bị stress bầy đàn và các tổn thƣơng trên cơ thể (Brambell, 1965; Geverink et al., 2003; Maes et al., 2016; Mendl et al., 1992; Verdon et al., 2015). Ở Việt Nam, năm 2015 đã ban hành Luật thú y đầu tiên, trong đó tại điều 21 đã quy định về việc đảm bảo phúc lợi động vật, nhƣng vấn đề này vẫn chƣa đƣợc quy định một cách chi tiết và cụ thể cho từng đối tƣợng vật nuôi (Nghị quyết 79/2015/QH13, 2015).
