Khu hệ thực vật nổi và đánh giá chất lượng nước thông qua chỉ số sinh học của tảo ở sông rạch tỉnh bạc liêu
- Người chia sẻ :
- Số trang : 5 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khu hệ thực vật nổi và đánh giá chất lượng nước thông qua chỉ số sinh học của tảo ở sông rạch tỉnh bạc liêu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
. Cấu trúc thành phần loài Thu thập được 47 loài tảo tập trung vào 4 ngành tảo chính, trong đó ngành tảo silic và tảo lam chiếm đa số (Bảng 1). Cấu trúc thành phần loài cho biết khu hệ tảo tại đây hầu như là các loài thích nghi với môi trường lợ mặn. Số lượng loài tảo lam chiếm 32% tại khu vực nghiên cứu đã thể hiện chất lượng nước tại đây có hiện tượng bị nhiễm bẩn hữu cơ. Khi độ bẩn tăng dần, tỷ lệ tảo lam cũng có xu hướng tăng theo và khi tảo lam chiếm ưu thế thì các ngành khác đều có nguy cơ giảm. Stt Ngành Số loài Tỷ lệ (%) 1 Cyanophyta (Tảo Lam) 15 32 2 Bacillariophyta (Tảo Silic) 27 57 3 Chlorophyta (Tảo Lục) 1 2 4 Dinophyta (Tảo Giáp) 4 9 Tổng Số 47 100 Số lượng loài tại các điểm nghiên cứu thấp, dao động từ 8 – 15 loài, chúng hầu hết là những loài tảo ít có giá trị dinh dưỡng với tôm, cá, thậm trí còn gây hại cho các loài nuôi thủy sản như: các chi tảo lam dạng chuỗi Oscillatoria, Phormidium, Anabaena, các chi tảo bám thuộc ngành tảo silic lông chim như Navicula, Pleurosigma, Nitschia. Các loài tảo trên tập trung trong các ao nuôi là chủ yếu, chúng thích nghi với môi trường nước tĩnh và giàu dinh dưỡng, đặc biệt đối với các loài thuộc ngành tảo lam, chúng dễ phát triển chiếm ưu thế và có thể lấn át các loài khác phát triển, khiến độ đa dạng loài trong khu vực giảm đi. Giữa các khu vực được nghiên cứu có số lượng loài biến thiên không lớn (Bảng 2): – Khu vực sông chính có số lượng loài: từ 8 – 14 loài, trong đó khu vực cửa Gành Hào có số lượng loài cao nhất (14 loài), cống Sư Son có số lượng loài thấp nhất (8 loài). – Khu vực Kênh dẫn có số loài thấp nhất trong 3 khu vực nghiên cứu: 8-9 loài – Khu vực ao có số lượng loài từ 8 – 15 loài, trong đó ao DVT có số loài cao nhất (15 loài), ao NHB và ao NVD thấp nhất (8 loài). – Các loài phân bố ở kênh dẫn đều có mặt ở các ao nuôi, số loài trong các ao nuôi cao hơn kênh dẫn chủ yếu là các loài tảo lam ưa bẩn.
