Khóa luận Các phương thức thanh toán chủ yếu được áp dụng trong thanh toán Quốc tế

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 78 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các phương thức thanh toán chủ yếu được áp dụng trong thanh toán Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không những làm cho trao đổi hàng hoá trong nước gia tăng mà còn làm cho trao đổi hang hoá và dịch vụ giữa các nước phát triển.Xu hướng chung hiện nay là sự liên kết kinh tế giữa các nước ngày càng chặt chẽ và hình thành một thị trường thống nhất. Các quốc gia có vai trò như một chủ thể kinh tế trên thị trường và cạnh tranh nhau để phát triển. Tuy nhiên, sự cạnh tranh để phát triển tự nó lại phát sinh nhu cầu hợp tác và phân công lao động quốc tế nhằm giải quyết những nhu cầu về tiền vốn, công nghệ, nhân lực, tài nguyên và thị trường tiêu thụ. Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta thực chất là một nền kinh tế tự cung tự cấp, khép kín với thị trường thế giới và chia cắt giữa các địa phương trong nước. Cơ chế hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời kỳ này là kế hoạch hóa cứng nhắc theo Nghị định thư và nhà nước độc quyền ngoại thương cả về phươg diện quản lý nhà nước XHCN, dưới các hình thức: Viện trợ nhân đạo, hoặc giá cả tượng trưng, hữu nghị. Cho nên các được các đơn vị, các ngành sản xuất khẩu có chất lượng, nhập khẩu cũng không được chú trọng đúng mức. Với tính chất và đặc điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại như vậy, thực chất chúng ta đã duy trì quá lâu một hệ thống kinh tế lạc hậu cứng nhắc, trong đó có hệ thống thanh toán quốc tế của Ngân hàng. Để điều tiết lợi ích kinh tế, nhà nước áp dụng lấy thu bù chênh lệch ngoại thương trên cơ sở một tỷ gía được ấn định trong một thời gian dài, nếu chi phí thực tế thấp hơn hoặc cao hơn tỷ giá quy định sẽ được Ngân Hàng Nhà Nước cấp bù hoặc thu về. Do vậy cũng không khuyến khích được các công ty hạch toán theo đúng thực chất mà còn mang tính thụ động trông chờ vào Nhà Nước. Trong khi đó nền kinh tế hàng hoá tạo ra cái gọi là “ lợi thế so sánh ”, trong quan hệ buôn bán và hợp tác tái sản xuất giữa các vùng, các quốc gia với nhau. Mỗi nước đều có thể tìm ra thế mạnh tương đối của mình trong phân công lao động quốc tế và mở rộng trao đổi với các nước khác trên phạm vi toàn cầu. Với quan điểm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, chiến lược cùng cất cánh (Theo Kinh Tế-Xã Hội Việt Nam Năm 2000 : Mục tiêu, phương hướng và biện pháp chủ yếu – Uỷ ban khoa học nhà nước 12/1990), sự hoà nhập của Việt Nam vào cộng đồng thế giới văn minh trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Vì vậy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một chiến lược không thể thiếu được trong thời kỳ đổi mới, là con đường thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát huy lợi thế của đất nước, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thực hiện chính sách mở cửa, tổ chức tốt công tác thanh toán quốc tế sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu, không ngừng thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại.