Hoàn thiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục rút gọn
- Người chia sẻ :
- Số trang : 6 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục rút gọn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
. Cần sửa đổi quy định của Điều 320 và Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự về việc quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và việc tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố Điều 319 BLTTHS quy định thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây: – Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; – Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; – Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; – Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng; Theo tinh thần của Điều 318, chương 34 BLTTHS năm 2003, khi xét xử những vụ án có các điều kiện quy định tại Điều 319 thì việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của BLTTHS không trái với những quy định của chương này. Về việc quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, khoản 1 Điều 320 BLTTHS quy định: “Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn”. Quy định như trên có nghĩa là, chỉ khi đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự, dựa vào các tài liệu đã thu thập được, Viện kiểm sát mới có điều kiện để xem xét, xác định vụ án có đủ điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn hay không? Thông thường, đối với những vụ án loại này, cùng với việc ra quyết định khởi tố vụ án, cơ quan có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để ra ngay quyết định khởi tố bị can, do đó càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quyết định có áp dụng hay không áp dụng thủ tục rút gọn được chính xác. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 320 BLTTHS, chỉ cần có quyết định khởi tố vụ án là Viện kiểm sát đã có thể xem xét để quyết định áp dụng thủ tục rút gọn mà chưa cần phải có quyết định khởi tố bị can. Còn trong khoản 2 Điều 320 lại quy định: “Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Theo quy định tại Điều BLTTHS, quyết định khởi tố bị can phải được gửi cho viện kiểm sát để xét phê chuẩn, nếu viện kiểm sát không phê chuẩn thì không thể tiến hành điều tra đối với bị can vì thực tế sẽ không có bị can. Như vậy, trong khoảng thời hạn 24 giờ từ thời điểm ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, liệu có hoàn thành được thủ tục khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can để có thể giao quyết định áp dụng thủ tục rút gọn cho bị can, đại diện hợp pháp của họ như quy định của điều luật hiện hành không? Theo chúng tôi, điều này là khó thực hiện được hoặc không cần thiết phải làm như vậy mà nên quy định sau khi có quyết định khởi tố vụ án, cơ quan điều tra ra ngay quyết định khởi tố bị can rồi mới đề nghị viện kiểm sát áp dụng thủ tục rút gọn. Nghĩa là trước khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, ngoài quyết định khởi tố vụ án đã có quyết định khởi tố bị can, viện kiểm sát quyết định áp dụng thủ tục rút gọn đồng thời với việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Do vậy, khoản 1 Điều 320 cần phải được bổ sung cho rõ ràng theo hướng là sau khi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, cơ quan điều tra đề nghị viện kiểm sát ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Ngoài ra, vì thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 321chỉ có 12 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án, chứ không phải từ ngày viện kiểm sát quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Vì vậy, cần phải quy định một thời hạn rất ngắn để Viện kiểm sát nghiên cứu để ra quyết định này, nhằm đảm bảo đủ thời gian để tiến hành các hoạt động điều tra xác định chính xác tội phạm, người phạm tội. Theo chúng tôi cần bổ sung vào Điều 320 một khoản về thời hạn Viện kiểm sát xem xét để ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn hay không áp dụng thủ tục này theo đề nghị của cơ quan điều tra, khoảng thời gian này là 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị của cơ quan điều tra cùng các tài liệu khác có liên quan. Việc áp dụng thủ tục rút gọn, ngoài việc đơn giản hoá quá trình tố tụng (thủ tục tố tụng) còn rút ngắn thời hạn tiến hành tố tụng nhằm giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án giải quyết nhanh chóng vụ án, cho nên cũng cần thiết phải có quy định phù hợp giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhất là đảm bảo quyền bào chữa. Do vậy, bị can, người đại diện hợp pháp của họ cần được giải thích rõ ràng và kịp thời về thủ tục rút gọn để họ biết những quyền và nghĩa vụ của mình. Nếu họ không được giải thích đầy đủ về thủ tục rút gọn có thể dẫn đến tình trạng không tin tưởng vào năng lực, trình độ của người tiến hành tố tụng hay các quyền lợi của họ sẽ không được bảo đảm như khi áp dụng các thủ tục thông thường, vì họ sẽ được biết rằng trong khoảng thời hạn rất ngắn của thủ tục này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ giải quyết tất cả những vấn đề của vụ án có liên quan đến quyền lợi của họ để nếu không đồng ý hoặc đồng ý với quyết định áp dụng thủ tục tố tụng này, họ có thể thực hiện quyền khiếu nại hay không khiếu nại đối với quyết định áp dụng này. Bên cạnh đó, khi được giải thích về quyền và nghĩa vụ theo thủ tục rút gọn, họ sẽ sớm có thời gian chuẩn bị về tâm lí cũng như những điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Vấn đề đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là vấn đề rất quan trọng không chỉ đặt ra trong các thủ tục tố tụng thông thường mà ngay cả ở thủ tục đặc biệt này càng cần được đảm bảo. Muốn thực hiện được điều này cần bổ sung vào khoản 2 Điều 320 quy định việc khi nhận được quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, cơ quan điều tra phải giải thích cho bị can, người đại diện hợp pháp của họ các quy định của thủ tục rút gọn cũng như quyền và nghĩa vụ của bị can để họ có thể thực hiện sớm các quyền của mình nhất là quyền lựa chọn người bào chữa.