Đề tài Vận dụng mô hình CAPM để lựa chọn danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 68 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng mô hình CAPM để lựa chọn danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập với thịtrường chứng khoán non trẻ, đầy biến động. Nền kinh tếViệt Nam muốn được tăng trưởng bền vững, kiểm soát được lạm phát thì trong đó vai trò của thịtrường chứng khoán là vô cùng quan trọng. Thị trường chứng khoán vừa là một kênh chuyển tải vốn trong nền kinh tế, vừa nhưmột là một thước đo sức khỏe của một nền kinh tế. Vì vậy việc ổn định và phát triển kinh tế không thểtách rời với việc ổn định và phát triển thịtrường chứng khoán. Việc ứng dụng các mô hình phân tích cơbản và phân tích kỹthuật đểdựbáo tỷ suất sinh lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tưmang tính chuyên nghiệp. Tuy nhiên, những diễn biến trên thịtrường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua là bằng chứng hiển nhiên cho việc thiếu vắng các công cụdựbáo này. Đa số các nhà đầu tưtrên thịtrường chứng khoán Việt Nam hiện nay đều thực hiện quyết định đầu tưmột cách cảm tính. Hơn nữa, đã có nhiều nghiên cứu trên thếgiới việc ứng dụng các lý thuyết đầu tư vào thịtrường chứng khoán, đặc biệt là các nghiên cứu thực tiễn trên các thịtrường chứng khoán cho những kết quảcó ý nghĩa thiết thực. Dựa vào điều đó càng khẳng định tính đúng đắn và tính thực nghiệm của các mô hình. Mô hình CAPM là một nỗlực đểkhám phá ra các công cụnhưchỉsốP/E và PBV đểdựbáo tỷsuất sinh lợi thịtrường trung bình trong thời gian dài. Kiểm định mô hình CAPM cho thấy βcủa chứng khoán riêng lẻthì không ổn định nhưng βcủa danh mục là ổn định với giả định khoản thời gian trong mẫu đủdài và một sốlượng giao dịch cổ phiếu thích hợp. Có sự ủng hộkhác nhau do mối quan hệtuyến tính dương giữa tỷ suất sinh lợi và rủi ro hệthống của danh mục, với một sốchứng cứmới cho thấy cần thiết đểxem xét các biến rủi ro bổsung hay các đại diện rủi ro khác nhau.