Đề tài Vận dụng kinh nghiệm lưu trữ thông tin của báo chí thế giới vào Việt nam nhằm phục vụ tốt công tác nghiên cứu khoa học

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 6 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng kinh nghiệm lưu trữ thông tin của báo chí thế giới vào Việt nam nhằm phục vụ tốt công tác nghiên cứu khoa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Báo chí được mệnh danh là “tấm gương phản ánh xã hội”, là “người thư ký trung thành của thời đại”, là “nhân chứng lịch sử “. Với những tên gọi và từ góc nhìn như thế, báo chí giúp các nhà khoa học tìm kiếm thông tin, để giải thích cắt nghĩa về một vụ việc sự kiện nào đó đã xảy ra đang gây tranh cãi, đưa ra những kết luận chính xác để giúp các cơ quan có trách nhiệm ra những quyết định đúng đắn. Tiêu biểu ở dạng này có thể là một vụ án hình sự nào đó, sau vài chục năm các nhà chức trách còn phải tìm kiếm thông tin, lật lại vấn đề, đưa ra những kết luận chính xác trong các phiên tòa. Báo chí góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đã xảy ra trong quá khứ, có thể là những chỉ số, số liệu để gúp các nhà khoa học dự đoán, dự báo sự phát triển trong tương lai của một ngành nghề nào đó. Những thông tin này thật đa hình đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, văn hóa, bất động sản, công nghiệp, nông nghiêp, an ninh quốc phòng. Báo chí cũng là nơi cung cấp những tri thức văn minh của nhân loại, những tri thức đó có thể là thông thường đơn giản với dân tộc này, với người này nhưng lại là tri thức mới mẻ, quan trọng với đất nước khác, dân tộc khác, con người khác. Ngay trong cơ quan báo chí, nguồn tư liệu của sản phẩm chính mình làm ra cũng rất cần thiết với phóng viên, biên tập viên khi viết về một đề tài hoặc làm một chương trình phát thanh, truyền hình nào đó. Vì thế việc bảo tồn những tri thức của nhân loại đã được nhiều cơ quan báo chí trong và ngoài nước đặt ra một cách nghiêm túc, có ý nghĩa lớn lao trong công tác nghiên cứu khoa học của nhiều ngành nghề khác nhau. Mặt khác, những điều kiện bảo tồn những thông tin, tư liệu báo chí của mỗi quốc gia, mỗi cơ quan báo chí chịu tác động bởi nhiều yếu tố vật chất, khí hậu, môi trường, điều kiện xã hội khác nhau. Những bản báo in trên giấy có thể bị bị lão hóa theo thời gian do tác động của môi trường ẩm ướt. . Vì thế cần chọn lựa nhiều cách bảo quản các thông tin, tri thức của nhân loại bằng nhiều cách, nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Mặt khác, với lượng giấy in báo càng ngày càng nhiểu, số lượng in ấn càng tăng nhanh nên khi tìm kiếm thông tin thực sự là khó khăn. Thí dụ ngày 26 tháng 3 năm 2007, báo Pháp luật luật thành phố Hồ Chí Minh đưa tin: Sở tư pháp thành phố Hồ Chí Minh trình bày đề án với Ủy ban nhân dân thành phố lập cơ sở dữ liệu các văn bản quy phạm, pháp luật từ sau ngày giải phóng đến nay. Nếu làm việc nghiêm túc, việc tìm kiếm thông tin về các văn bản pháp luật sau 32 năm không hề đơn giản. Nhóm nghiên cứu sẽ phải đọc và tìm kiếm thông tin trên báo Pháp luật là: 16 trang x 4 số / tuần x 52 tuần trong 1 năm x 32 năm = 106. 496 trang báo. Nếu khai thác thông tin qua báo Sài gòn giải phóng, nhóm nghiên cứu phải đọc và tìm kiếm qua 8 trang báo x 365 ngày x 32 năm = 93. 240 trang báo cỡ lớn. Giả sử có một nguồn thông tin lưu trữ từ trước qua các báo sẽ thuận lợi biết bao cho các nhà nghiên cứu. Sau 10 năm bùng nổ Internet ở Việt nam, kể từ ngày 19/11/1997, Tổng cục bưu điện chính thức khai trương lễ kết nối internet toàn cầu, cả nước có trên 4, 3 triệu thuê bao quy đổi, đáp ứng yêu cầu của 15, 5 triệu dân, , đạt chỉ số 18, 64 người /100 dân, vượt chỉ số của các nước trong khu vực các nước ASEAN, vượt Thái lan 12, 65%, Trung quốc 9, 4 %, Philippin 9, 12%. chúng ta đã có 89 cơ quan báo điện tử, 2500 trang Web là điều kiện để người nghiên cứu truy cập và tìm kiếm những thông tin cần thiết. Một nhóm nghiên cứu tìm kiếm thông tin phổ biến về một vấn đề tầm cỡ : “Quy hoạch tổng thể kinh tế chính tri-văn hóa xã hội giai đoạn 2005 -2010 “của 64 tỉnh thành thì chỉ có thông tin của 15 tỉnh thành phố trong vòng 3 năm trở lại đây, đạt 25 % lượng thông tin cần tìm kiếm. Điều đó chứng tỏ rằng công tác luu trữ thông tin, tạo cơ sở dữ liệu trên báo mạng của Việt nam đang trên đường phát triển, còn thiếu và cần phát triển hơn nữa. Thông tin về hoạt động báo chí ở Việt nam trên thế giới còn lạc hậu và chậm trễ. Thông tin về ngành báo chí Việt nam còn rất ít. Trong cuốn cẩm nang báo chí thế giới, in bằng tiếng Nga, xuất bản năm 1986 chúng ta chỉ có thông tin vắn tắt về 40 cơ quan báo chí. Trong Bách khoa toàn thư “Con người và những phát minh “do Pháp xuất bản năm 1996, mục truyền thông không có dòng nào nhắc đến báo chí Việt nam. Trong từ điển bách khoa toàn thư Encarta do Microsoft Corpration xuất bản năm 2005 Việt nam chỉ được một lần nhắc tới về sự kiện báo chí 1975. Trong cuốn Rámes xuất bản 2001, trích dẫn về các chỉ số phát triển báo chí của Việt nam quá ít ỏi, sai số 5 lần so với hiện thực . Đó là một phần trong qua trình hội nhập, chúng ta chưa có bước đi cùng nhịp với các nước trên thế giới. Để có những tầm nhìn chiến lược trong tương lai, điểm lại vài kinh nghiệm luu trữ thông tin của các báo trên thế giới.