Đề tài Vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong cấp giấy phép đăng ký kinh doanh hiện nay

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 5 trang
  • Lượt xem : 5
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong cấp giấy phép đăng ký kinh doanh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đóng góp một phần rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế, góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế của đất nước. Trong những năm qua, khu vực doanh nghiệp đã có sự phát triển, mở rộng vượt bậc cả về quy mô, chất lượng và số lượng. Số lượng thành viên tham gia và các loại hình doanh nghiệp được bổ sung thêm hàng chục nghìn thành viên mới; xu hướng và chất lượng kinh doanh của các doanh nghiệp được cải thiện đáng kể. Trong thời gian qua, công tác cải cách hành chính đã tập trung giải quyết được nhiều vấn đề, song để tạo điều kiện cho những cá nhân, tổ chức đăng ký kinh doanh góp phần mở rộng thêm số lượng doanh nghiệp thì vẫn còn nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do thủ tục cấp giấy phép kinh doanh còn phức tạp, rườm rà. Trong khi ở một số nước trên thế giới, để được cấp giấy phép kinh doanh, doanh nghiệp chỉ cần mất từ hai đến ba ngày, như tại Canada là ba ngày, ở Úc là hai ngày, nhưng ở Việt Nam thì phải mất một tháng rưỡi (lâu hơn 25 lần so với thế giới)[1]. Trong đó, các thủ tục mất thời gian nhất là làm Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, khắc con dấu, mua hóa đơn. Có lẽ cũng vì thế mà cho đến nay, số doanh nghiệp tính trên đầu người ở Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Chỉ tiêu của Việt Nam là đến năm 2010 sẽ có 500.000 doanh nghiệp mới được thành lập. Tuy nhiên, mục tiêu này sẽ khó trở thành hiện thực nếu hệ thống giấy phép còn cồng kềnh như hiện nay[2]. Phải khẳng định rằng, các giấy phép rườm rà đó là do các cơ quan hành chính đặt ra và nhiều khi, không tôn trọng tinh thần tự do kinh doanh được Hiến pháp và Luật Doanh nghiệp bảo đảm. Tức là, các giấy phép đó có dấu hiệu bất hợp hiến và bất hợp pháp. Báo cáo phân tích 37 giấy phép kinh doanh do Ban Pháp chế – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện đã cho thấy thực trạng về tính chất bất hợp pháp của các văn bản pháp quy liên quan đến đăng ký kinh doanh. Báo cáo này nhận định: khi rà soát 37 loại giấy phép lựa chọn, đã cho thấy tất cả các giấy phép này đều được quy định ở các văn bản pháp luật có các mức độ giá trị pháp lý khác nhau, nhưng không phải giấy phép nào cũng có căn cứ pháp lý theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp, ví dụ: – Một số loại giấy phép được quy định trong các văn bản pháp luật mà theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 không được phép quy định về điều kiện kinh doanh (trong đó có giấy phép kinh doanh). Rà soát cho thấy có tới 19/37 giấy phép có vấn đề về căn cứ pháp lý. Một số loại giấy phép (5/37 giấy phép) hoàn toàn không có căn cứ pháp lý (ví dụ: văn bản đồng ý nội dung kịch bản trò chơi trực tuyến và các điều kiện kinh doanh trò chơi trực tuyến khác quy định tại Thông tư liên tịch số 60/2006/TTLT-BVHTT-BBCVT-BCA). Một số loại khác (16/37 giấy phép) có căn cứ pháp lý nhưng không đầy đủ (ví dụ: các điều kiện kinh doanh quảng cáo chỉ được quy định một phần trong Pháp lệnh Quảng cáo và Nghị định số 24/2003/NĐ-CP, đa số các điều kiện khác được quy định tại Thông tư số 43/2003/TT-BVHTT và Thông tư số 79/2005/TT-BVHTT). – Một số loại giấy phép được quy định trong các văn bản không còn hiệu lực pháp lý. Hiện tượng này thường xảy ra đối với các giấy phép mà văn bản làm căn cứ pháp lý cho nó đã bị sửa đổi hoặc hết hiệu lực mà chưa có văn bản thay thế. Ví dụ, các điều kiện để cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu (áp dụng cho đại lý bán lẻ xăng dầu) được quy định trong Thông tư số 14/1999/TT-BTM hướng dẫn Nghị định số 11/1999/NĐ-CP, tuy nhiên vì Nghị định số 11/1999/NĐ-CP đã được thay thế bằng Nghị định số 59/2006/NĐ-CP nên về nguyên tắc, Thông tư số 14/1999/TT-BTM không còn hiệu lực pháp lý.