Đề tài Ưu đãi xã hội ở Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 27 trang
- Lượt xem : 5
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ưu đãi xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Cơ chế ưu đãi xã hội là nét riêng có trong hệ thống AN SINH Xà HỘI Việt Nam. Cơ chế này nhằm đảm bảo cho 2 nhóm người chủ yếu như sau: Nhóm những người đã có công sức đóng góp cho vận mệnh của đất nước, công cuộc cách mạng của dân tộc bao gồm: những người đã gắn bó cả cuộc đời của mình với sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của cộng đồng; những người gặp rủi ro trong quá trình hoạt động cho sư nghiệp chung của cộng đồng. Phần lớn những người thuộc nhóm này thường bị suy giảm, mất khả năng lao động, khả năng cầu tiến trong điều kiện cạnh tranh của thị trường trong khi sự đóng góp của họ là vô giá (tính mạng, thân thể, gia sản, ). Việc ưu đãi đặc biệt những người này so với những người lao động bình thường kể cả những người lao động bất hạnh khác là phù hợp với truyền thống lâu đời của dân tộc: uống nước nhớ nguồn. Các chính sách đãi ngộ nhóm người này gồm có: • Chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam; • Chính sách ưu đãi đối với gia đình liệt sỹ, gia đình có công giúp đỡ Cách mạng. Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, năm 1946, Hồ Chủ tịch đã kêu gọi thành lập Hội Binh sĩ bị thương, khởi xướng phong trào “Mùa đông binh sĩ”, luôn quan tâm thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sĩ, Sắc lệnh 20/SL ngày 18/02/1947 ban hành chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ qui định những khoản BHXH đặc biệt như: hưu bổng, thương tật, tử tuất. Sắc lệnh 77/SL ngày 22/05/1950 đều có những chính sách bảo đảm cho công nhân viên ngành quân giới bị thương được hưởng quyền lợi giống như quân nhân và quyền lợi ưu tiên như đối với thương binh. Tháng 05/1954, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ có văn bản qui định cho nhân viên, cán bộ dân chính, công an dân quân hoặc thường dân tham gia dân công, tham gia chiến đấu mà bị thương thì cũng coi là thương binh. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, chính sách ưu đãi đối với người có công được tiếp tục bổ sung, đổi mới: xác định khái niệm thương binh và người hưởng chính sách như thương binh, qui định chế độ trợ cấp thương tật, chế độ đối với thương binh ở trại, chế độ miễn, giảm tiền tàu xe, ưu tiên sắp xếp việc làm, xác định khái niệm “liệt sĩ”thay cho “tử sĩ”, trợ cấp tử tuất cho gia đình liệt sĩ, chính sách trợ giúp thương binh, gia đình liệt sĩ trong hoạt động hợp tác xã nông nghiệp. Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ đãi ngộ đối với quân nhân, thanh niên xung phong, quân dân du kích, tự vệ, quân nhân dự bị, sửa đổi chế độ phụ cấp thương tật, trợ cấp tử tuất. Chính sách ưu đãi đối với người có công tiếp tục được mở rộng trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đối với mọi đối tượng trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu mà bị thương tật, hy sinh như: thanh niên xung phong, dân công thời chiến, lực lượng vận tải nhân dân, lao động nghĩa vụ, cán bộ y tế xã, hợp tác xã, khối phố, Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, rồi cuộc chiến biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, chiến tranh tình nguyện ở Campuchia xảy ra, công việc xác định liệt sỹ, tìm kiếm, qui tập hài cốt, xây dựng nghĩa trang liệt sỹ, xác nhận thương binh, thống nhất chính sách đối với người có công và gia đình có công được làm hàng ngày, hàng giờ liên tục từ đó đến nay. Ngoài những chính sách hỗ trợ trực tiếp (trợ cấp), trong thời kỳ này, nhà nước ta cũng đã qui định nhiều chính sách ưu tiên trong các hoạt động kinh tế đối với người và gia đình có công. Năm 1994, Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng và Pháp lệnh qui định danh hiệu danh dự nhà nước Bà Mẹ Việt Nam anh hùng được công bố đã hoàn thiện chính sách ưu đãi xã hội về nhiều mặt đối với người có công với cách mạng. Nhóm những người đã và sẽ cung cấp sức lao động quý báu cho nền kinh tế-xã hội bao gồm những người già đã có quá trình làm việc, lao động lâu năm, cống hiến sức lao động cho xã hội, những bà mẹ có công sinh nở, nuôi nấng con trẻ và trẻ em – nguồn sức lao động cho sự phát triển kinh tế-xã hội trong tương lai lâu dài. Các chính sách đãi ngộ nhóm người này ở Việt Nam gồm có: • Chính sách đối với người cao tuổi (Pháp lệnh người cao tuổi); • Chính sách đối với bà mẹ và trẻ em. Nguồn tài chính để tạo ưu đãi xã hội đối với những người này trước tiên là NSNN, tiếp đó là sự đóng góp của toàn cộng đồng đầy tính nhân văn qua các phong trào, hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, phong trào tình nguyện đã và đang diễn dưới nhiều hình thức da dạng và hiệu quả, thiết thực ở khắp mọi miền đất nước. ChÝnh môc ®Ých trªn nªn em nghiªn cøu ®Ò tµi vÒ u ®•i x• héi ë ViÖt Nam
