Đề tài Truyền hình cáp và hệ thống truyền hình cáp ở Việt Nam
- Người chia sẻ :
- Số trang : 34 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Truyền hình cáp và hệ thống truyền hình cáp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Hệ thống truyền hình cáp (CATV) xuất hiện vào những năm cuối của thập niên 40. Thuật ngữ CATV xuất hiện đầu tiên vào năm 1948 tại Mỹ khi thực hiện thành công hệ thống truyền hình cáp hữu tuyến (Cable television). Một năm sau, cũng tại Mỹ hệ thống truyền hình anten chung (CATV – Community Antena Television) cung cấp dịch vụ thuê bao bằng đường truyền vô tuyến đã được lắp đặt thành công. Từ đó, thuật ngữ CATV được dùng để chỉ chung cho hệ thống truyền hình cáp vô tuyến và hữu tuyến. Mục tiêu ban đầu của truyền hình cáp là phân phát các chương trình quảng bá tới những khu vực, do các điều kiện khó khăn về địa hình không thể thu được bằng các anten thông thường, gọi là vùng lõm sóng. Truyền hình cáp sử dụng các kênh truyền nằm trong phạm vi dải thông cận dưới của băng UHF. Các kênh trruyền hình cáp được chia thành các băng VHF thấp, VHF giữa, VHF cao và siêu băng (superband). * Truyền hình cáp vô tuyến MMDS (Multiprogram Multipiont Distribution Sytem) sử dụng môi trường truyền sóng là sóng viba tại dải tần 900 MHz. Tuy triển khai mạng MMDS rất đơn giản do chỉ dùng anten mà không cần kéo cáp đến từng nhà nhưng nó có rất nhiều nhược điểm như: – Hạn chế vùng phủ sóng: Do sử dụng dải tần 900 MHz, MMDS đòi hỏi anten thu và phát phải nhìn thấy nhau. Vì vậy, với các hộ gia đình ở sau các vật cản lớn như: toà nhà thì không thể thực hiện được. – Chịu ảnh hưởng bởi thời tiết: Khi thời tiết xấu như mưa to, sét v.v.tín hiệu MMDS bị suy hao rất lớn trong không gian, dẫn đến giảm mạnh chất lượng hình ảnh. – Chịu ảnh hưởng mạnh của nhiễu công nghiệp: Do sử dụng phương thức điều chế tín hiệu truyền hình tương tự không có khả năng chống lỗi, lại truyền bằng sóng vô tuyến, tín hiệu MMDS chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi các nguồn nhiễu công nghiệp. – Yêu cầu dải tần số vô tuyến quá lớn: Mỗi kênh truyền cần một dải tần là 8 MHz nếu cung cấp 13 kênh truyền thì cần một dải tần là 13 * 8 =104 MHz, đây là một dải tần vô tuyến lớn trong khi nguồn tài nguyên vô tuyến lại rất quý giá. – Gây can nhiễu cho các đài phát vô tuyến khác: mặc dù được phân phối một dải tần riêng, nhưng máy phát MMDS cũng như máy phát vô tuyến khác luôn sinh ra các tần số hài bậc cao có thể ảnh hưởng đến các trạm phát vô tuyến khác. – Khó khăn trong việc cung cấp dịch vụ truyền hình số.
