Đề tài Thực trạng và các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA ở Việt Nam
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 90 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Chúng ta cho rằng, nguồnvốn có từ trong nước là chủ yếu nhưng đồng
thời, cũng đánh giá rằng nguồn vốn bên ngoài là rấtquan trọng, bên cạnh vốn
bằng tiền còn có nguồn vốn về sức lao động, đất đai và công nghệ Hơn nữa,
bất kỳ sự tăng trưởng cơ bảnnào vẫn xuất phát từ nộilực, nhưng các nguồn tài
chính nước ngoài đóng góp rất nhiều cho tăng trưởng ở các nước đang phát triển,
đặc biệt ở thời kỳ đầu cấtcánh. Lợi ích mang lại của các nguồn tài chính nước
ngoài không chỉ ở quy mô về vốn thu nhận được mà chính là ở vai trò tác động
lan tỏa của nó khi chuyển giao và tiếp nhận công nghệ hiện đại, kể cả công
nghệ vào thế hệ đời chót, nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh trong nước, cải
thiện cơ sở hạ tầng và tạo sức ép cải thiện về thể chế.
Nguồn vốn nước ngoài thường bao gồm vốn phát triển chính thức (Official
Development Finance – ODF) và dòng vốn tư nhân. ODFlại bao gồm chủ yếu
phần cho vay chính thức giữa các quốc gia và viện trợ, trong đó ODA là nguồn
vốn quan trọng cho các nước đang phát triển trong thời kỳ đầu của quá trình
công nghiệp hóa. Tuy nhiên nguồn ODA hiện nay đang có xu hướng giảm tại
các nước đang phát triển do áp lực cân đối ngân sách của các nước viện trợ cùng
với việc sử dụng kém hiệu quả nguồn viện trợ này tại các nước đang phát triển.
Ơ Việt Nam, cho đến nay lượng vốn ODA đưa vào đầu tư phát triển kinh tế –
xã hội trên phạm vi cả nước còn chiếm tỷ trọng rất thấp,chỉ đạt 70-80% kế
hoạch. Đặc biệt, so với số được cam kết và ký kết, tốc độ giải ngân vốn ODA ở
Việt Nam còn thấp hơn mức trung bình của các nướctrong khu vực, thường chỉ
đạt khoảng 50% tổng số vốn đã được các nhà tài trợ cam kết.