Đề tài Tác động của việc xây dựng Khu bảo tồn Thiên nhiên Mường Nhé đến sinh kế của cộng đồng
- Người chia sẻ :
- Số trang : 64 trang
- Lượt xem : 5
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của việc xây dựng Khu bảo tồn Thiên nhiên Mường Nhé đến sinh kế của cộng đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Để hạn chế suy thoái tài nguyên nhiên, bảo tồn loài, quần thể và quần xã, hệ sinh thái cho thế hệ mai sau và duy trì sự tồn vong của Trái đất, con người đã có những nỗ lực trong công tác bảo tồn bằng những hành động hiệu quả như thực hiện “Mục tiêu thiên niên kỷ”, hành động cho các điểm nóng “hotspot” về đa dạng sinh học thuộc Global 200 ( WWF – Global 200, 1997). Nỗ lực mạnh mẽ nhất và được đánh giá thành công nhất trong nhiều thập kỷ qua của Việt Nam là việc xây dựng hệ thống các KBTTN bao gồm hầu hết các hệ sinh thái trong phạm vi toàn quốc với 30 VQG; 62 KBTTN và 38 KBT di tích văn hoá và lịch sử (Phòng bảo tồn – Cục Kiểm lâm, tháng 12/2007). Bên cạnh đó Nhà nước, các tổ chức quốc tế đã đầu tư vào các dự án, chương trình về bảo tồn loài, bảo tồn hệ sinh thái, chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng, tạo sinh kế, bảo vệ rừng. Bên cạnh ảnh hưởng tích cực của việc xây dựng các KBTTN và các VQG đến hệ sinh thái tự nhiên của địa phương và khu vực cũng như quốc gia và toàn cầu còn có những ảnh hưởng tiêu cực lên cộng đồng địa phương ở trong các KBTTN. Những ảnh hưởng đó dẫn đến một số thực trạng sau: – Hạn chế của người dân địa phương trong việc tiếp cận với các loại lâm sản phục vụ cho sinh kế, nơi mà người dân đã chung sống với thiên nhiên qua nhiều thế hệ; – Việc sử dụng tài nguyên đất phục vụ cho canh tác cây trồng, vật nuôi bị hạn chế do một phần được đưa vào KBT; – Văn hóa bản địa bị ảnh hưởng do chính sách phát triển các loại hình du lịch ở khu vực có những đặc trưng khác biệt có thể khai thác vì mục đích kinh tế. KBTTN Mường Nhé, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên được thành lập theo Quyết định 194/CT ngày 9/8/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với diện tích là 182.000 ha. Năm 2008 Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên ra Quyết định số 593/QĐUB ngày 23 tháng 5 năm 2008 phê duyệt dự án thành lập KBTTN Mường Nhé với diện tích 45.581ha; Diện tích vùng đệm gần 124.381,34ha, có 6 xã: Nậm Kè, Mường Nhé, Chung Chải, Sín Thầu, Mường Toong và Quảng Lâm. Dân số là 18.586, trong đó lao động chiếm 37,6% dân số, với lao động nông nghiệp là 84,3%. Các dân tộc, gồm: dân tộc Mông chiếm 58,7% dân số; dân tộc Hà Nhì chiếm 12,0% dân số; dân tộc Thái chiếm 11,6% dân số; dân tộc Dao chiếm 3,1% dân số; dân tộc Kinh có 538 người chiếm 2,8% dân số, dân tộc Xạ Phang chiếm 2,5% dân số. Ngoài ra có các dân tộc khác như dân tộc Kháng, Cống, dân tộc Si La. Phân bố ở xã Chung Chải (dân tộc Si La), xã Nậm Kè (dân tộc Cống), xã Quảng Lâm (dân tộc Kháng). Trước đây hầu hết người dân dựa vào tài nguyên rừng và sản xuất nông nghiệp như tập quán canh tác làm ruộng bậc thang làm nương chăn nuôi, đời sống của họ còn nhiều khó khăn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Để nghiên cứu mối ảnh hưởng qua lại giữa bảo tồn và cộng đồng, đặc biệt là những tác động tích cực và tiêu cực của việc xây dựng KBTTN Mường Nhé đến cộng đồng vùng đệm, hơn nữa, qua khảo cứu các tài liệu chưa có những đề cập đến nghiên cứu trong lĩnh vực này, chúng tôi đề xuất đề tài: “Tác động của việc xây dựng KBTTN Mường Nhé đến sinh kế của cộng đồng vùng đệm: trường hợp nghiên cứu ở xã Chung Chải, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên”.