Đề tài Phân tích Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 12 trang
  • Lượt xem : 5
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Chiếu dời đô là tác phẩm được Lý Công Uẩn soạn ra vào tháng 7 năm 1010 để công bố quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La. Chiếu dời đô có giá trị to lớn, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của Lý Công Uẩn. Dù đã trải qua hơn 1000 năm, tác phẩm này vẫn có những giá trị sâu sắc, đầy tính thực tiễn. Lý Công Uẩn (974 – 1028) lên làm vua năm 1009, niên hiệu là Thuận Thiên. Ông là người thông minh, nhân ái, chính trực, có công lớn trong việc lập triều Lý, mở ra một thời kì thái bình thịnh trị lâu dài cho dân tộc. Tháng 7, mùa thu, năm 1010 Lý Thái Tổ nhận thấy đất Hoa Lư chật hẹp, ẩm thấp không tiện cho giao thông bèn viết bài Chiếu quyết định dời đô ra Đại La (sau đổi thành Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay). Theo từ điển thuật ngữ văn học, chiếu là một thể loại văn thư nhà vua dùng để ban bố mệnh lệnh cho thần dân. Như vậy, có thể hiểu chiếu là một loại văn cung đình, tác giả của chiếu là nhà vua, độc giả chính là nhân dân. Nội dung của các bài chiếu thường là những chủ trương, chính sách cụ thể của vua. Chiếu xuất phát không phải là một tác phẩm văn học mà là một văn bản chính trị, có tính chất giáo lệnh. Chính vì thế, bài chiếu thường có tính chất trang trọng, chặt chẽ và hơi khô khan. Chiếu chỉ được viết bằng chữ Hán. Chiếu có thể được viết bằng văn xuôi, văn vần hay văn biền ngẫu. Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn viết bằng văn biền ngẫu. Chiếu là một thể văn có ở Trung Quốc từ thời cổ đại, được truyền sang nước ta từ lâu đời. Chiếu cùng loại với mệnh, lệnh và chế nhưng mức độ uy lực pháp luật của chiếu cao hơn, nội dung của chiếu thường là những vấn đề quan trọng của quốc gia. Xuất phát từ đặc điểm thể loại của chiếu, ta có thể hiểu vì sao Lý Công Uẩn lại chọn thể loại này để công bố quyết định dời đô. Kinh đô là trung tâm chính trị của đất nước, việc dời đô có thể làm đất nước phát triển hơn hay thụt lùi đi tùy thuộc vào sự đúng đắn của quyết định di dời ấy. Chính vì thế, quyết định dời đô là một quyết định quan trọng bậc nhất của đất nước, chỉ có chiếu là thể loại phù hợp nhất. Nội dung bài chiếu chia làm hai phần: phần một giải thích vì sao phải dời đô khỏi Hoa Lư, phần hai giải thích vì sao lại chọn Đại La làm nơi đóng đô mới. Kết cấu hai phần thế này rất rõ ràng và logic, chặt chẽ. Trong phần một lại chia là hai đoạn nhỏ: đoạn một từ đầu đến “phong tục phú phụ” nói về lí do, bài học lịch sử và mục đích của việc dời đô; đoạn hai từ “Nhi Đinh Lê nhị thị” đến “bất đắc bất tỉ” phê phán hai nhà Đinh Lê chọn Hoa Lư làm kinh đô là sai lầm và bắt buộc phải dời đô. Trong đoạn một của phần một, đầu tiên Lý Công Uẩn nêu ra những bài học về việc dời đô trong lịch sử Trung Quốc – đất nước gần gũi, quen thuộc với Việt Nam. Nhà Thương – một triều đại cổ của Trung Quốc – từ vua Thành Thang đến vua Bàn Canh đã năm lần dời đô. Vua Thành Thang đóng đô ở phía Đông Nam huyện Thương Khâu (nay thuộc Hà Nam – Trung Quốc), đời Trọng Đinh dời đô đến huyện Thành Cao (Hà Nam), đời Hà Đản Giáp dời đô đến phủ Chương Đức (Hà Nam), đời Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (nay thuộc Hà Đông), đời Bàn Canh dời đô đến huyện Yên Sư (Hà Nam). Liên tiếp bốn đời vua nhà Thương đã đi tìm cho mình miền đất hứa để đóng đô, cho đất nước phát triển nhưng không thành công, làm cho cả dân tộc “dã tràng xe cát” rồi mới tìm được nơi hợp lý để đóng đô, ấy là Yên Sư.