Đề tài Những vấn đề lý luận cơ bản về chứng khoán và chào bán chứng khoán

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 13 trang
  • Lượt xem : 10
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề lý luận cơ bản về chứng khoán và chào bán chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Chứng khoán theo quan điểm truyền thống là phương tiện xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu, điều đó cũng có nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trên phương diện pháp lý. Ở Việt Nam, khái niệm chứng khoán được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”. b. Đặc điểm của chứng khoán. Là một loại hàng hóa đặc biệt, chứng khoán có những đặc điểm khác biệt so với các loại hàng hóa thông thường khác: Thứ nhất: Tính sinh lời: thể hiện ở việc người phát hành ra chúng phải trả cho người sở hữu chứng khoán một khoản lợi nhuận trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng vốn. Lợi nhuận do chứng khoán mang lại có thể là cố định hoặc biến đổi tùy thuộc vào từng loại chứng khoán. Là một loại hàng hóa đặc biệt, chứng khoán tạo ra một khoản tiền lớn hơn giá trị ban đầu mà nhà đầu tư đưa vào kinh doanh. Tính sinh lời của chứng khoán đã tạo nên sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán và là hình thức đầu tư được nhiều nhà đầu tư lựa chọn. Thứ hai: Tính rủi ro: bản chất của hoạt động đầu tư luôn tiềm ẩn trong nó những rủi ro. Việc kinh doanh chứng khoán là một hoạt động đầu tư để thu lợi nhuận trong một khoảng thời gian nhất định. Mức độ rủi ro của chứng khoán phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn, thực trạng, triển vọng của chủ thể phát hành. Tính rủi ro luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và khả năng thanh khoản của chứng khoán. Thứ ba: Chứng khoán có khả năng thanh khoản cao: có nghĩa là khả năng chuyển đổi thành tiền mặt một cách dễ dàng của chứng khoán. Đây vừa là đặc điểm vừa là lợi thế của chứng khoán làm cho chứng khoán được lưu hành rộng rãi trên thị trường. Tính thanh khoản của chứng khoán xuất phát từ nhu cầu mua bán, sử hữu chứng khoán của các nhà đầu tư, thị trường chứng khoán. Điều này tạo thuận lợi cho người sở hữu chứng khoán khi không muốn nắm giữ chứng khoán, họ có thể bán cho người khác để thu tiền mặt hoặc chuyển một khoản đầu tư dài hạn thành ngắn hạn. Tính thanh khoản của chứng khoán tạo nên sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, góp phần làm cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động. Thứ tư: Chứng khoán có tính không đồng nhất giữa mệnh giá thị giá: giá cả của chứng khoán không thể xác định bằng biện pháp thông thường như đối với hàng hóa, dịch vụ khác. Giá trị của chứng khoán có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào doanh nghiệp phát hành và thị trường. Việc định giá chúng phải căn cứ vào thực trạng và triển vọng của người phát hành, điều đó đòi hỏi phải có chuyên môn cao. c.Phân loại chứng khoán. Dựa vào các tiêu chí khác nhau, chứng khoán được phân thành nhiều loại. Cách phân loại thông dụng là dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và nhà đầu tư, chứng khoán được chia thành: Thứ nhất: Cổ phiếu: là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Cổ phiếu gồm cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi. Thứ hai: Trái phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu với người sở hữu trái phiếu. Thứ ba: Chứng chỉ quỹ đầu tư: là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ hoặc các quỹ đầu tư phát hành xác nhận quyền lợi của nhà đầu tư đối với quỹ phát hành.