Đề tài Nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng và kỹ thuật trồng xen trong nương đồi cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản ở các tỉnh tây bắc

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 128 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng và kỹ thuật trồng xen trong nương đồi cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản ở các tỉnh tây bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Ngày 3/6/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành quyết định số 750/QĐ- TTg phê duyệt quy hoạch phát triển cao su đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 [41]. Theo quy hoạch đến năm 2020 vùng Tây Bắc có khoảng 50 nghìn ha cao su. Nhiều tỉnh đã xây dựng các đề án phát triển cây cao su và phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam thành lập một số công ty Cổ phần cao su: Công ty cổ phần cao su Sơn La, Công ty cổ phần Cao su Điện Biên, Công ty cổ phần Cao Su Lai Châu I, Công ty cổ phần cao su Lai Châu II và Công ty cổ phần Cao su Hà Giang. Tính đến hết năm 2010, các tỉnh Tây Bắc đã trồng được 14.803 ha cây cao su, trong đó Sơn La trồng 5.357 ha, Điên Biên 3.326 ha, Lai Châu 6.120 ha. Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày, thời gian kiến thiết cơ bản kéo dài khoảng 6 – 9 năm mới cho khai thác mủ. Trong giai đoạn đầu từ năm thứ nhất tới năm thứ 4 cây cao su chưa khép tán, khoảng cách giữa các hàng và cây cao su rộng (hàng x hàng x cây tương ứng 7m x 7m x 2,5m), giai đoạn này bộ tán cao su còn nhỏ, diện tích che phủ đất thấp và cây cao su được trồng ở Tây Bắc hầu hết trên những vùng đất có độ dốc lớn. Do vậy hiện tượng xói mòn rửa trôi xảy ra là tất yếu, gây hiện tượng mất dinh dưỡng đất nghiêm trọng, làm mất khả năng sản xuất của đất và ảnh hưởng xấu đến môi trường. Mặt khác diện tích trồng cao su được chuyển đổi chủ yếu từ đất nương rẫy của bà con, canh tác cây hàng năm nên hiện tượng xói mòn rửa trôi diễn ra càng mạnh. Cho đến nay hầu hết diện tích cao su tại vùng Tây Bắc đang trong giai đoạn kiến thiết cơ bản, chưa có thu nhập cho các hộ trồng cao su. Ngoài các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, của địa phương và của Tập đoàn cao su Việt Nam (ví dụ: tỉnh Sơn La cũng có chính sách hỗ trợ cụ thể đối với các hộ gia đình góp đất trồng cao su: Với diện tích đất trồng cây lưu niên nếu tham gia góp đất trồng cao su sẽ được hỗ trợ 5,0 triệu đồng/ha, đất trồng cây hàng năm như ngô, sắn, lúa được hỗ trợ 3,0 triệu đồng/ha và diện tích đất rừng sẽ được hỗ trợ 2,0 triệu đồng/ha). Trong giai đoạn KTCB, một vấn đề được đặt ra đó là: người dân cần có thêm những khoản thu nhập khác để đảm bảo cuộc sống khi cao su chưa cho thu hoạch mủ, có thể yên tâm chăm sóc, bảo vệ và phát triển vườn cao su. Để phát triển cây cao su một cách bền vững, ngoài việc được hỗ trợ từ các chính sách của Đảng, Nhà nước, tỉnh, các Công ty cao su thì việc trồng xen trong giai đoạn kiến thiết cơ bản là hết sức cần thiết vừa góp phần bảo vệ đất, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhờ việc “lấy ngắn nuôi dài”, đồng thời cũng góp phần làm giảm công lao động cho việc làm cỏ và chăm sóc cao su trong giai đoạn này. Tuy nhiên cho đến nay vùng miền núi phía Bắc nói chung và các tỉnh Tây Bắc nói riêng hiện chưa có những kết quả nghiên cứu cụ thể nào về cây trồng xen để nhân rộng ra sản xuất trong nương đồi cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản, vì vậy việc triển khai thực hiện đề tài: “Nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng và kỹ thuật trồng xen trong nương đồi cao su giai đoạn kiến thiết cơ bản ở các tỉnh Tây Bắc” là rất cấp thiết, đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn của vùng