Đề tài Nghiên cứu ứng dụng nước biển nhân tạo trong sản xuất giống tôm sú (penaeus monodon) qua hệ thống lọc sinh học tuần hoàn mã số b2005 – 31 – 87
- Người chia sẻ :
- Số trang : 45 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu ứng dụng nước biển nhân tạo trong sản xuất giống tôm sú (penaeus monodon) qua hệ thống lọc sinh học tuần hoàn mã số b2005 – 31 – 87, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Năm 1934, Tiến sĩFujinaga, người được thếgiới công nhận là ông tổcủa nghề nuôi tôm, đã cho sinh sản thành công và ương nuôi được một phần ấu trùng tôm He (Penaeus japonicus) ởNhật Bản (Hudinaga, 1942) trích dẫn bởi Nguyễn Văn Chung (2000). Năm 1943, Panouse đã phát hiện ra phương pháp nuôi vỗtôm thành thục bằng cách cắt mắt. Từ đó đến nay phương pháp này đã được hoàn thiện dần và được áp dụng trên nhiều nước trên thếgiới (trích dẫn bởi Ngô Anh Tuấn, 1995). Năm 1963, phòng thí nghiệm Galveston ởTexas (Mỹ) đã thành công trong việc cho sinh sản và ương nuôi hai loài ấu trùng tôm he của Mỹ(P. setiferus và P. aztecus) (cook và Murphy, 1966) trích dẫn bởi Nguyễn Quốc Việt (2001). Sau đó, kỹthuật trên đã được ứng dụng cho các loài tôm sú (P. monodon), tôm thẻ(P. merguiensis), tôm thẻ Ấn Độ(P. indicus) ởnhiều trại giống ởChâu Á như Đài Loan, Philippine, Thái Lan và Malaysia. Từ đó đến nay, nhiều công trình nghiên cứu sản xuất giống tôm sú đã được tiến hành với những cải tiến khác nhau nhưviệc kết hợp những ưu điểm trong các hệthống bểlớn của Nhật Bản, hệthống bểnhỏ (Galveston) của Mỹ. Theo Lê Xuân Sinh (2002), ởnước ta những nghiên cứu vềsản xuất tôm giống nhân tạo phát triển chậm hơn so với các nước trên thếgiới hàng thập kỷvà đến năm 1980 một sốtrại ởmiền trung bắt đầu cung cấp tôm giống cho người nuôi. Sang giai đoạn 1990-1994, hệthống mạng lưới sản xuất giống đã phát triển mạnh mẽ ở Miền Trung, chủyếu là sản xuất giống tôm sú (P. monodon) đểcung cấp cho Miền Nam, thời kỳnày việc nghiên cứu sản xuất giống cũng được bắt đầu được quan tâm và phát triển ởMiền Nam. Năm 1994 cảnước có 800 trại sản xuất giống tôm biển, năm 1999 là 2125 trại (BộThủy Sản, 1999) và năm 2002 cảnước có 4774 trại đã sản xuất được 19 tỷcon giống. các trại này tập trung chủyếu ởcác tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Cà Mau với sốtrại tương ứng là 1260, 1196 và 821 (BộThủy Sản, 2003). Hiện nay, sản xuất giống tôm sú đang phát triển rộng rãi do nhu cầu tôm giống ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu nuôi tôm thịt đang phát triển mạnh ở ĐBSCL. Trước tình hình đó các trại sản xuất giống có khuynh hướng phát triển ởkhu vực xa biển. Hầu hết các trại sản xuất giống sửdụng chủyếu là nước biển hoặc nước ót để pha chế, do đó giá thành cao và đôi khi thiếu hụt nhất là trong mùa mưa.
