Đề tài Nghiên cứu đa dạng hóa các mô hình chăn nuôi bò thịt theo các vùng sinh thái khác nhau và tiếp cận thị trường tại Cao Bằng và Hà Giang
- Người chia sẻ :
- Số trang : 16 trang
- Lượt xem : 7
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu đa dạng hóa các mô hình chăn nuôi bò thịt theo các vùng sinh thái khác nhau và tiếp cận thị trường tại Cao Bằng và Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu KHCN-nguồn vốn ADB thuộc chương trình Nông nghiệp Việt nam hƣớng tới khách hàng mã số AST28 được triển khai tại Cao Bằng và Hà Giang về đa dạng hóa các mô hình chăn nuôi bò thịt theo các vùng sinh thái khác nhau và tiếp cận thị trường, đã cho các kết quả rất khả quan về hệ thống chăn nuôi bò thịt của người H’mông. Đây là nguồn sinh kế của người dân tộc H’mông trên vùng núi cao, với giống bò H’mông và phương thức chăn nuôi cổ truyền của người H’mông đã tạo nên tính đặc thù về chất lượng của loại thịt bò này. Trong mục tiêu hướng tới khách hàng của đề tài AST28 đã chọn loại thịt bò này để phát triển thị trường và xây dựng thương hiệu cho thịt bò H’mông Cao Bằng (đã xây dựng thành công Nhãn hiệu tập thể), nhờ các đặc tính vượt trội về chất lượng. Hiện tại kênh phân phối thử nghiệm thịt bò H’mông từ Cao Bằng về Hà Nội với đầu mối là công ty Rural Food đã thành công, công ty đã ký hợp đồng để cung cấp cho hệ thống siêu thị Big C cả nước. Tuy nhiên, hệ thống cung cấp này đang gặp ba thách thức lớn:6 Một là, số lượng các thành viên là hộ chăn nuôi tham gia vào Hội chăn nuôi và tiêu thụ thịt bò Cao bằng còn hạn chế, (trong đề tài mới thành lập được 6 mô hình Nhóm sở thích tại 2 tỉnh; riêng ở Cao Bằng mới có 3 nhóm với trên 120 hộ tham gia). Hơn nữa, số người tiêu dùng biết tới sản phẩm thịt bò H’mông Cao Bằng chưa nhiều, đặc biệt là biết cụ thể về nguồn gốc chăn nuôi, chất lượng thịt, qui trình chăn nuôi, giết mổ và hệ thống truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm thịt bò H’mông Cao Bằng. Hai là, thị phần tại thị trường Hà Nội còn hạn chế (1 tháng mới bán được 0,5 tấn) tương đương 5 con bò đực nuôi thịt, nhưng nếu hợp đồng ký kết với BigC được thực hiện thì số lượng thịt bò yêu cầu sẽ rất nhiều và đầu sản xuất cần có kế hoạch để cung ứng theo yêu cầu của hệ thống BigC cả về số lượng và chất lượng.
