Đề tài Một số vấn đề về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- Người chia sẻ :
- Số trang : 6 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc hiến định, được quy định tại Điều 132 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được ghi nhận tại Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Mục đích của quy định này nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong tố tụng hình sự. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa bằng việc đưa ra các chứng cứ và yêu cầu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Theo quy định của Điều 56 BLTTHS, người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân. Không chỉ ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Điều 11 BLTTHS còn quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng là phải bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình theo quy định của BLTTHS. Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm qua cho thấy, mặc dù quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTHS, song trên thực tế, trong nhiều vụ án hình sự, quyền cơ bản này của người bị buộc tội, đặc biệt là quyền được nhờ người khác bào chữa không được đảm bảo thực hiện. Theo bà Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp), hơn 70% phiên toà (bao gồm cả phiên toà hình sự, dân sự, kinh tế ) không có luật sư tham gia.[1] Riêng đối với các vụ án hình sự, theo báo cáo của Bộ Tư pháp, số vụ án có người bào chữa tham gia chiếm khoảng “hơn 10% so với tổng vụ án mà các Toà án đã xét xử”.[2] Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, theo bà Tạ Thị Minh Lý là do “số vụ án nhiều, trong khi đó số luật sư hành nghề thì ít, đối tượng phải ra toà thường nghèo hoặc chưa tin cậy luật sư”.[3] Theo quan sát của chúng tôi, ngoài những nguyên nhân kể trên còn phải kể đến các nguyên nhân khác như: trình độ hiểu biết pháp luật của người dân nói chung còn thấp, trong nhiều vụ án hình sự, bị can, bị cáo không biết mình có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình; các quy định của pháp luật về vấn đề này còn có những bất cập; và ý thức của những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa cao. Trong bài viết này chúng tôi xin đề cập đến một số vấn đề về đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong các giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Cụ thể là đảm bảo sự tham gia tố tụng của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc đảm bảo thực hiện các quyền năng tố tụng của người bào chữa tại phiên toà.