Đề tài Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
- Người chia sẻ :
- Số trang : 20 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên chủ thể tham gia hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng hoạt động một cách an toàn, lành mạnh, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các quy định pháp luật để xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, các quy định này đã bộc lộ nhiều bất cập, không phù hợp với thực tiễn nền kinh tế của nước ta. – Quy định về quy chế cho vay: Về mặt hình thức, hiện nay quy chế cho vay được ban hành bằng một quyết định của Thống đốc NHNN. Tuy nhiên các văn bản về bảo đảm tiền vay, về giao dịch bảo đảm lại được ban hành dưới hình thức Nghị định. Do đó, quy chế cho vay vừa có hiệu lực pháp lý thấp hơn, vừa chưa đảm bảo được sự tương thích với các văn bản pháp luật có liên quan này. Quy định về lãi suất áp dụng đối với các khoản nợ quá hạn được thỏa thuận tối đa không quá 150% (khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay 1627) thiếu cụ thể, phản ánh không đúng bản chất của chế tài tín dụng đối với khách hàng vay không trả nợ đúng hạn. Bởi vì, các TCTD có thể thỏa thuận với khách hàng một lãi suất quá hạn bằng lãi suất cho vay trong hạn. Ở đây, ta thấy đòi hỏi đặt ra là phải có hệ thống pháp luật đồng bộ và cụ thể từ những nhà làm luật. – Việc nhà nước ấn định trần lãi suất huy động, không giúp nhiều cho việc hạn chế rủi ro trong hệ thống và cũng không đảm bảo lãi suất thực dương để chống lạm phát. Mặt khác, việc thả nổi lãi suất cho vay tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đẩy lãi suất cho vay lên cao, gây áp lực nặng nề lên các chủ thể đi vay, đặc biệt là các doanh nghiệp. Từ đó ta thấy sự cần thiết của việc Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất trần cho vay bên cạnh lãi suất trần huy động. Nếu NHNN đưa ra được mức lãi suất trần hợp lý thì cả đôi bên đều có lợi, phía tổ chức tín dụng sẽ tính toán để sau khi trừ các chi phí, lạm phát thì vẫn có lãi, phía doanh nghiệp cũng không bị ép khi đi vay.Mức lãi suất trần cho vay này nếu quá thấp thì lãi suất huy động vốn cũng thấp, lại khó thu hút được vốn. – Cần sửa đổi một số quy định về cho vay không có tài sản bảo đảm vì khi tổ chức tín dụng cho vay không có tài sản bảo đảm, pháp luật không có quy định cụ thể về trách nhiệm của bên đứng ra bảo lãnh, tín chấp, rất dễ gặp rủi ro. Đối với trường hợp TCTD cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ, các nhà làm luật nên quy định rõtrong trường hợp khách hàng không trả được nợ , chính phủ sẽ đóng vai trò là người bảo lãnh đứng ra trả nợ cho bên vay, đảm bảo việc thu hồi vốn của TCTD. Trường hợp TCTD cho vay theo tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội cũng cần quy định trách nhiệm cụ thể của các tổ chức đứng ra bảo lãnh và các phương thức để xử lý khi TCTD không thu được nợ từ cá nhân, hộ gia đình nghèo đã vay vốn. Khi trách nhiệm trả nợ được đảm bảo, các TCTD sẽ không còn e dè trong việc cấp vốn vay cho các đối tượng được bảo lãnh. Theo đó, những chính sách kinh tế, xã hội mà Nhà nước đặt ra sẽ được thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả hơn. – Cần điều chỉnh lại các đối tượng cấm cho vay. Việc quy định các đối tượng cấm cho vay theo Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng 2010 đã vô hình chung gạt bỏ những khách hàng tiềm năng của các TCTD. Mặt khác, trên thực tế , mục đích cấm cho vay đối với các đối tượng đó là làm lành mạnh quan hệ cho vay, tránh trường hợp các cá nhân đó tư lợi không được thực hiện triệt để. Bởi lẽ, bằng cách này hay cách khác, nguồn vốn vẫn được chuyển đến tay các đối tượng này dưới các hình thức trá hình khác nhau mà pháp luật không kiểm soát được. Chính vì vậy, pháp luật cần sửa đổi các quy đinh về các đối tượng thuộc diện cấm cho vay, theo đó, cha mẹ, vợ chồng, con của thành viên ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) và các chức danh tương đương vẫn có quyền vay vốn nếu họ đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn mà pháp luật quy định. – Cần thống nhất lại các văn bản pháp luật về vấn đề xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất. Do sự mâu thuẫn trong quy định xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất trong trường hợp các bên không có thỏa thuận giữa Luật đất đai 2003 và Bộ luật dân sự 2005 nên trong việc phát mại tài sản để thu hồi nợ của TCTD gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trước hết phải thống nhất các quy định về phương thức xử lý tài sản đảm bảo giữa hai văn bản pháp luật trên. Đồng thời, TCTD sẽ được phép bán đấu giá tài sản đó một cách công khai để tiết kiệm thời gian và chi phí, trong trường hợp bên vay thấy bất hợp lý thì có thể khởi kiện ra tòa án. – Cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về đảm bảo tiền vay theo hướng thống nhất hóa các quy định và quan tâm hơn đến lợi ích kinh doanh của khách hàng. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về đảm bảo tiền vay chưa được thiết kế theo một hệ thống thống nhất, còn tản mạn, trùng lặp, chồng chéo. Từ những lý do trên, nhất thiết phải củng cố chế định sở hữu tài sản trong BLDS 2005, ban hành các văn bản dưới luật để hỗ trợ cho các quy định bảo đảm quyền vay. Đồng thời, đối với những tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải có quy định cụ thể về đăng ký quyền sở hữu khi chuyển nhượng tài sản (như làm thủ tục sang tên chính chủ đối với tài sản)
