Đề tài Luật quản lý thuế và những vấn đề cần bàn thêm

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 6 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Luật quản lý thuế và những vấn đề cần bàn thêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Xét về mặt lý thuyết, pháp luật thuế bao gồm: pháp luật vật chất hay còn gọi pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục hay còn gọi pháp luật hình thức; trong đó pháp luật vật chất ghi nhận, phản ánh chính sách thuế, còn pháp luật thủ tục quy định các vấn đề về quản lý thuế. Xét về mặt lý thuyết, pháp luật thuế bao gồm: pháp luật vật chất hay còn gọi pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục hay còn gọi pháp luật hình thức; trong đó pháp luật vật chất ghi nhận, phản ánh chính sách thuế, còn pháp luật thủ tục quy định các vấn đề về quản lý thuế. Thực tiễn lập pháp cho thấy có hai xu hướng: một là, các vấn đề về quản lý thuế được ghi nhận trong các luật về chính sách thuế; hai là, các vấn đề về quản lý thuế được quy định tại một văn bản độc lập – gọi là luật quản lý thuế. Tất nhiên mỗi một xu hướng đều có các ưu nhược điểm khác nhau, nhưng xu hướng thứ nhất thường gặp phải các rắc rối trong việc thể hiện các nội dung về quản lý thuế, vì vậy ảnh hưởng lớn đến các hành vi ứng xử trong thực thi quản lý thuế. Song cũng phải thấy rằng, ranh giới giữa luật quản lý thuế và các luật về chính sách thuế cũng không hoàn toàn quá rạch ròi trong cách thể hiện, bởi điều này còn phụ thuộc vào kỹ thuật, trình độ lập pháp và sự lựa chọn của các nhà làm luật, chẳng hạn: các quy định quản lý có tính chất đặc thù của từng sắc thuế có thể sẽ được đưa vào các luật về chính sách thuế, còn các quy định quản lý mang tính chất chung sẽ được đưa vào luật quản lý thuế. Điều này không hoàn toàn phá vỡ nguyên tắc chung mà đạt được hiệu quả cao. Tất nhiên, để có một cơ cấu thống nhất, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế, luật quản lý thuế phải được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản, có thể theo nguyên tắc trình tự thời gian, có thể theo nguyên tắc chức năng hoặc có thể theo nguyên tắc phạm trù pháp lý. Nếu theo nguyên tắc trình tự thời gian thì luật quản lý thuế được xây dựng bắt đầu bằng việc giải thích luật, tiếp theo xác định nghĩa vụ của người nộp thuế, trách nhiệm quyền hạn của cơ quan thuế và sau đó đi sâu vào từng nghĩa vụ, trách nhiệm quyền hạn cụ thể. Nếu theo nguyên tắc chức năng thì luật quản lý thuế được xây dựng trên cơ sở theo chức năng quản lý của cơ quan thuế như chức năng cung cấp thông tin, chức năng kiểm tra, thanh tra thuế; chức năng điều tra thuế; cưỡng chế thuế; chức năng xử lý nợ thuế; xử lý vi phạm pháp luật thuế v.v. và cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý thuế cũng được thiết kế trong luật (như nguyên tắc tổ chức, hoạt động của cơ quan quản lý thuế; cơ cấu tổ chức của bộ máy quản lý thuế v.v.). Nếu theo nguyên tắc phạm trù pháp lý thì luật quản lý thuế được thiết kế bắt đầu bằng các khái niệm sử dụng trong luật, quyền pháp lý của người nộp thuế; nghĩa vụ pháp lý của cơ quan quản lý thuế; xử lý vi phạm đối với người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế v.v. Dù được xây dựng, thiết kế theo nguyên tắc nào thì luật quản lý thuế bao giờ cũng có vai trò hết sức quan trọng trong việc quản lý điều hành chính sách thuế hay nói một cách trực diện hơn, luật quản lý thuế là luật tổ chức thực hiện các luật thuế. Vì vậy, vấn đề hiệu quả của các luật về chính sách thuế phụ thuộc khá lớn vào luật quản lý thuế. Cho dù các luật về chính sách thuế phản ánh chuẩn xác, khoa học chính sách thuế nhưng nếu luật quản lý thuế – quản lý cách thức vận hành của chính sách thuế – không phù hợp và thiếu tính khoa học, vô hình trung, đã làm vô hiệu hoá các luật thuế. Cũng cần có nhận thức sâu sắc rằng, luật quản lý thuế và các luật về chính sách thuế có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau, sự thay đổi nội dung của các luật thuế tất yếu kéo theo sự thay đổi của luật quản lý thuế, đặc biệt đối với luật quản lý thuế có quy định những vấn đề quản lý mang tính chất đặc thù của từng sắc thuế. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa sự thay đổi của luật quản lý thuế hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay đổi của các luật thuế, mà luật quản lý thuế có tính độc lập tương đối của nó. Sự thay đổi cơ bản của luật quản lý thuế phần lớn phụ thuộc vào cơ chế, phương thức quản lý thuế của một quốc gia, phụ thuộc vào ý thức tuân thủ luật pháp của các thành viên trong xã hội. Và cũng phải thấy rằng, luật quản lý thuế không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ với các luật thuế mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với các văn bản pháp luật khác, như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thanh tra, Luật Hải quan, Pháp lệnh Điều tra các vụ án hình sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính v.v. Vì vậy khi ban hành luật quản lý thuế cần có sự cân nhắc cẩn trọng để đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật đó.