Đề tài Lập mô hình dự báo phá sản công ty phi tài chính Việt Nam
- Người chia sẻ : vtlong
- Số trang : 93 trang
- Lượt xem : 20
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lập mô hình dự báo phá sản công ty phi tài chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
“Tính từ đầu năm 2011 đến nay, đã có hơn 50.000 DN tại TP Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh làm ăn thua lỗ, phá sản – đây là một con số đáng lo ngại. Nhưng chưa hết, thực
tế số doanh nghiệp đang trong tình trạng ngắc ngoải “chết lâm sàng” còn rất nhiều và dự
báo con số này còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Doanh nghiệp phá sản dẫn đến
những hệ lụy domino ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến nền kinh tế” (Báo An ninh
thủ đô n ày 8/1/2013).
Có thể thấy, phá sản của các doanh nghiệp vẫn còn là một vấn đề vô cùng nhức
nhối của nền kinh tế nước ta hiện nay. Chính phủ đã ban hành hàng loạt các phương án
giải cứu, hỗ trợ để góp phần giúp doanh nghiệp khắc phục khó khăn, khuyến khích doanh
nghiệp vượt khó, mở rộng thị trường sản xuất kinh doanh và chuẩn bị điều kiện phát triển
ổn định, bền vững, tránh cho doanh nghiệp đi vào bờ vực phá sản thông qua năm giải
pháp lớn bao gồm: điều hành vĩ mô (hạ nhanh lãi suất huy động và cho vay, ưu tiên vốn
tín dụng một số ngành ), chi tiêu công (đẩy nhanh đầu tư xây dựng cơ bản ), thuế và
phí (gia hạn thời gian nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm tiền thuế đất ),
điều hành giá và trợ cấp, cải cách thủ tục hành chính thuế (giảm chi phí thủ tục cho doanh
nghiệp). (Nghị quy t 13/NQ-CP vào tháng 5/2012) Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt để
các doanh nghiệp tồn tại vẫn chính là sự chủ động, cương quyết của mỗi doanh nghiệp
đặc thù, đề ra những chiến lược sản xuất kinh doanh hợp lí, phù hợp hoàn cảnh để phát
triển.
Vậy thì vấn đề đặt ra ở đây là trong những năm trước khi phá sản hoặc giải thể,
các doanh nghiệp ở nước ta nhìn chung đã có những dấu hiệu nhận biết nào để từ đó các
doanh nghiệp có thể chủ động khắc phục, tập trung vào mối ưu tiên, quan tâm hàng đầu,
hạn chế được kết quả xấu cuối cùng là phá sản? Điều này đã thúc đẩy chúng tôi tìm tòi và
nghiên cứu mô hình dự báo phá sản đối với các công ty phi tài chính ở Việt Nam, dựa
2
trên các thành tựu đạt được từ rất nhiều bài nghiên cứu của các quốc gia trên thế giới
trong nhiều thập kỉ qua. Mô hình được xây dựng dựa trên việc kiểm định 22 biến tài
chính thuộc bốn mảng quan trọng của doanh nghiệp là tỷ số đòn bẩy, tỷ số khả năng sinh
lợi, tỷ số vòng quay và tỷ số thanh khoản để nhận biết được các nhân tố nào đóng vai trò
quan trọng và đánh giá mức độ ảnh hưởng của chúng đối với khả năng phá sản từ đó sẽ
giúp các doanh nghiệp, các nhà đầu tư có những giải pháp, hướng đi thích hợp.
Đầu tiên ta sẽ bắt đầu với với khái niệm phá sản.
Phá sản được xác định là việc công ty không có khả năng tiếp tục việc kinh doanh
hiện tại do có nghĩa vụ nợ cao (Pongsatat et al. 2004). Phá sản điển hình xảy ra khi hoặc
dòng tiền hoạt động của công ty thì không đủ để thực hiện nghĩa vụ hiện tại- tức là không
có khả năng trả các khoản nợ – hoặc là khi giá trị ròng của công ty là âm – tức là giá trị
của tài sản thì ít hơn giá trị của khoản phải trả (Knox et al., 2008)
Định nghĩa về phá sản khác nhau giữa các quốc gia. Ví dụ, ở Mỹ, có hai chương
luật về những công ty được xác định là phá sản ví dụ sự thanh lý trong chương 7 và sự tái
tổ chức trong chương 11 (Alman 1968). Tương tự, ở Nhật, có 3 luật cơ bản xếp những
công ty lớn nào là phá sản: Luật phục hồi công dân, Luật tái tổ chức doanh nghiệp và
Luật đóng cửa doanh nghiệp (Xu và Zhang 2008). Bởi vì không có một định nghĩa tổng
quát hoá, có nhiều nghiên cứu như Beaver 1966 và Tavlin at al 1989 đã xác định phá sản
dựa theo các cơ sở và phạm vi kiến thức của họ.