Đề tài Khảo sát tình hình nuôi cá lóc thương phẩm ở tỉnh Hậu Giang

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 63 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • 67946 kilobooks.com.doc
  • 67946 kilobooks.com.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát tình hình nuôi cá lóc thương phẩm ở tỉnh Hậu Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Từ những năm đầu thập niên 90 Việt Nam đã xác định TS là ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta và liên tục trong thời gian qua, ngành TS đã đạt tốc độ tăng trưởng rất cao, cụ thể năm 1991 sản lượng TS mới đạt 700.000 tấn với giá trị kim ngạch đạt 11,2 triệu USD, thì đến năm 2005 sản lượng đạt 3,3 triệu tấn ( tăng 4,7 lần ) và giá trị kim ngạch đạt 2.650 triệu USD ( tăng 236,5 lần ) (theo Bộ thủy sản, 2006 ). Khi dân số gia tăng và nhu cầu dinh dưỡng của con người ngày càng cao thì khai thác và NTTS được nhiều người quan tâm hướng đến.Cần khẳng định rằng nguồn lợi TS không phải là vô tận nếu khai thác không đi đôi với bảo vệ, tái tạo và phát triển thì nguồn lợi sẽ khánh kiệt. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng phát triển TS trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Với mạng lưới sông ngòi chằng chịt kéo dài từ Lạng Sơn tới mũi Cà Mau , Việt Nam có tiềm năng lớn cho phát triển NTTS với 1.692.878 ha diện tích mặt nước, trong đó 911.740 ha diện tích mặt nước ngọt và 761.138 ha diện tích mặt nước lợ. Diện tích NTTS năm 2002 là 955.101 ha, sản lượng là 976.100 tấn, trong đó NTTS nước ngọt là 42.500 ha với nhiều đối tượng nuôi và mô hình nuôi khác nhau (Bộ thủy sản, 2003). Diện tích NTTS cũng tăng lên qua các năm, năm 2004 cả nước có 920.100 ha diện tích mặt nước, năm 2005 tăng lên 959.900 ha dùng cho NTTS (Niên giám thống kê, 2005). Trong khi nguồn lợi TS bị hại chế và dễ bị tổn thương thì nhu cầu của con người về chúng lại tăng lên không ngừng. Cá và những loài TS khác đang và sẽ là thực phẩm mà ngày càng có nhu cầu cao. ĐBSCL là vùng có nhiều dạng thủy vực rất thuận lợi cho NTTS, diện tích đất tự nhiên của ĐBSCL là 189.400 ha, đến năm 2003 đã là 614.600 ha và theo định hướng quy hoạch đến năm 2010 sẽ là 649.430 ha (Bộ Thuỷ Sản, 2005). Trong những năm qua, NTTS đã trở thành thế mạnh kinh tế rất quan trọng ở ĐBSCL. Năm 2005, diện tích NTTS toàn khu vực là 680.200 ha với sản lượng TS khoảng 983.384 tấn. Năm 2007 là 1.100.000 ha với sản lượng đạt 1.268.000 tấn, bằng khoảng 70% sản lượng NTTS của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu TS của của cả nước đạt 3,792 tỷ USD, trong đó ĐBSCL đạt trên 60,52% giá trị kim ngạch xuất khẩu TS của cả nước (Phạm Đình Đôn, 2004). Khi nói đến sự gia tăng sản lượng nuôi TS nước ngọt thì phải kể đến sự gia tăng sản lượng cá da trơn (cá tra, cá2 basa), cá lóc, tôm càng xanh, Và cá lóc hiện là đối tượng nuôi quan trọng trong cơ cấu đàn cá nuôi ở ĐBSCL (Nguyễn Văn Thường, 2004). Tuy nhiên các mô hình nuôi cá lóc có thật sự đạt hiệu quả tối ưu!? Các yếu tố kinh tế – kỹ thuật có tác động tới sản lượng thu hoạch và lợi nhuận!?Tình hình sử dụng cá tạp làm thức ăn chính cho đối tượng nuôi này có làm giảm đáng kể nguồn lợi thủy sản tự nhiên!? Vì vậy đề tài : “Khảo sát tình hình nuôi cá lóc thương phẩm ở tỉnh Hậu Giang” được thực hiện nhằm đánh giá vai trò cũng như hiện trạng của mô hình, đồng thời phân tích các yếu tố kinh tế – kỹ thuật ảnh hưởng tới năng suất và lợi nhuận của mô hình nuôi cá lóc thương phẩm ở tỉnh Hậu Giang. Từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản để cải thiện hiệu quả kinh tế – kỹ thuật, góp phần nâng cao năng suất và lợi nhuận, mang lại hiệu quả kinh tế cho mô hình và góp phần bảo vệ nguồn lợi TS tự nhiên. Do điều kiện và thời gian có hạn không thu được đầy đủ các mô hình ở tỉnh Hậu Giang nên trong đề tài này chỉ thực hiện trên hai mô hình là vèo ao và vèo sông. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu tổng quát Nhằm đánh giá được hiện trạng nuôi cá lóc của tỉnh Hậu Giang và đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả của các mô hình nuôi cá lóc tại địa bàn nghiên cứu. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể – Đánh giá được hiện trạng của các mô hình nuôi cá lóc đang được áp dụng ở tỉnh Hậu Giang. – Phân tích được các yếu tố kinh tế ảnh hưởng tới năng suất và lợi nhuận của mô hình nuôi cá lóc thương phẩm. – Phân tích được các yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng tới năng suất và lợi nhuận của mô hình nuôi cá lóc thương phẩm. – Phân tích tình hình sử dụng thức ăn cá tạp và đánh giá nhận thức của người dân trong việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản. – Đề xuất một số giải pháp cơ bản để cải thiện hiệu quả kinh tế-kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất và lợi nhuận mang lại hiệu quả kinh tế và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. 1.3.Nội dung nghiên cứu – Phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế trong nuôi cá lóc thương phẩm.3 – Phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kỹ thuật trong nuôi cá lóc thương phẩm. – Phân tích việc sử dụng thức ăn cá tạp trong nuôi cá lóc thương phẩm. – Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận của các mô hình nuôi cá lóc thương phẩm ở địa bàn nghiên cứu. – Nhận thức của người nuôi về các vấn đề có liên quan tới thức ăn, con giống, môi trường nuôi 4 CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NTTS là một ngành sản xuất động thực vật thuỷ sinh trong điều kiện kiểm soát hoặc bán kiểm soát, hoặc như người ta vẫn thường nói, NTTS là sản xuất nông nghiệp trong môi trường nước. Vì vậy, NTTS đề cập đến cả các hoạt động trong môi trường nước mặn, nước ngọt và nước lợ. NTTS ở Việt Nam và trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ, trong những năm gần đây sản lượng và diện tích nuôi liên tục tăng. Tuy nhiên, đứng về góc độ quản lý, ngành NTTS thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, trong đó việc phát triển bền vững NTTS là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức. Nếu những người NTTS không có được những giải pháp nhanh chóng, hiệu quả và đồng nhất thì không thể phát triển NTTS bền vững được. Sự phát triển vùng nuôi thiếu quy hoạch và đầu tư lâu dài đã trở thành một nguy cơ trước mắt đối với nhiều nước phát triển NTTS quá nhanh, trên hết là sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường đòi hỏi các nước sản xuất phải liên tục tăng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm trong khi vẫn giữ được sự phát triển bền vững, đồng thời lại phải hết sức nhanh nhạy trong công tác xúc tiến thương mại để chiếm lĩnh thị trường. 2.1. Tình hình nuôi thủy sản trên thế giới Có thể nói nghề NTTS trên thế giới phát triển rất mạnh với đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Sự phát triển của nghề NTTS được khẳng định trong mối quan hệ với tổng sản lượng TS trong vùng, khu vực, toàn cầu. Sản lượng NTTS ở các nước Châu Á chiếm khoảng 88% tổng sản lượng TS toàn cầu trong đó Trung Quốc là nước dẫn đầu về sản lượng NTTS ở khu vực Châu Á với 61% tổng sản lượng toàn cầu và 54% tổng sản lượng ở Châu Á. NTTS thế giới có tốc độ tăng trưởng rất nhanh với tốc độ tăng bình quân 8.8%/năm (theo báo cáo của FAO). Tổng sản lượng TS thế giới năm 2007 ước tính đạt 146 triệu tấn, tổng sản lượng TS khai thác đạt 94 triệu tấn (64,3%) và sản lượng TS nuôi đạt 52 triệu tấn (35,6%). Khai thác còn chiếm tỉ trọng cao nhưng hầu như không tăng do đã gần đạt mức năng suất tối đa .5 Hình 2.1: Sản lượng thủy sản thế giới ( Nguồn: FAO,2008) Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển NTTS cả về nuôi nước mặn, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Năm 2005 đã nuôi TS với 648.770 ha nước mặn, lợ và 359.430 ha nước ngọt (Tạp chí TS, số 12/2005 ). Ngành TS Việt Nam trong những năm qua đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 18,4%/năm. Đây là một bước tiến nhảy vọt góp phần quan trọng trong việc xuất khẩu cũng như cung cấp nguồn thực phẩm cho cả nước. Việc đa dạng hóa các mô hình nuôi và mở rộng diện tích đã góp phần đáng kể vào việc gia tăng sản lượng cá nước ngọt ở Việt Nam.