Đề tài Hiệu lực của chấp nhận giao kết hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2005 – Nhìn từ góc độ luật so sánh

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 9 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu lực của chấp nhận giao kết hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2005 – Nhìn từ góc độ luật so sánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

“Chấp nhận chỉ có hiệu lực khi đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện hay tiêu chuẩn của chấp nhận”. Đây là quy tắc chung mà bất kỳ luật gia nào cũng phải thừa nhận. Nhưng có một vài sự đáp ứng điều kiện của chấp nhận rất khó đánh giá. Nên có thể có các quy chế riêng, đôi khi gây tranh luận. Chẳng hạn Unidroit cho rằng, về nguyên tắc chung, chấp nhận bằng hành động chỉ có hiệu lực khi người đề nghị được thông báo về hành động đó. Như vậy khó có thể phân biệt giữa chấp nhận bằng hành động với chấp nhận bằng các cách thức khác khi người đề nghị nhận được một thông báo “Tôi đã hành động theo đề nghị của quí ngài”? Tuy nhiên Unidroit cũng đã nhấn mạnh rằng những thông báo như vậy chỉ cần thiết nếu bản thân hành động không bao hàm sự thông báo chấp nhận trong một khoảng thời gian hợp lý1. Chấp nhận đề nghị là giao kết hợp đồng, tuy nhiên nhất thiết phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định2. Hợp đồng được giao kết là hậu quả pháp lý mấu chốt và quan trọng nhất của chấp nhận. Nói cách khác, đó chính là điểm mấu chốt của hiệu lực của chấp nhận. Tuy nhiên trước tiên cần phải nghiên cứu thời điểm chấp nhận có hiệu lực và thời điểm hợp đồng được giao kết. Thời điểm chấp nhận có hiệu lực theo pháp luật Việt Nam chính là thời điểm người đề nghị nhận được chấp nhận. Mặc dù Điều 397, khoản 1 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 không có quy định rõ ràng về thời điểm này. Song nếu giải thích nó trong mối quan hệ với các Điều 391, khoản 1 và Điều 400 của BLDS 2005, thì chúng ta có kết quả nêu trên. Thời điểm giao kết hợp đồng giữa những người gặp mặt nhau hoặc trao đổi trực tiếp với nhau được BLDS 2005 quy định: Đối với hợp đồng giao kết bằng lời nói là thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung của hợp đồng; đối với hợp đồng giao kết bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản (Điều 404 khoản 3 và khoản 4). Việc giao kết hợp đồng bằng văn bản theo tinh thần của Điều khoản này cũng có thể được hiểu trong trường hợp bên này gửi cho bên kia một bản văn hợp đồng để cùng nhau trao đổi, thoả thuận nhằm đi đến ký kết, hoặc nếu chấp nhận thì ký vào và gửi lại. Đặc biệt Điều 397, khoản 2 BLDS 2005 buộc người được đề nghị phải trả lời ngay về việc có chấp nhận hay không trong trường hợp các bên trực tiếp giao tiếp với nhau qua điện thoại hoặc qua các phương tiện giao tiếp khác (chẳng hạn như “chat”), trừ khi có thoả thuận khác về thời hạn trả lời. Vì vậy có thể suy ra trường hợp được đề cập tới trong điều khoản này có thể khác với trường hợp được nói tại Điều 404, khoản 3 BLDS 2005. Tuy nhiên các điều khoản của BLDS 2005 liên quan tới hình thức và thời điểm giao kết hợp đồng có nhiều cách giải thích khác nhau. Dưới đây sẽ đề cập tới cách giải thích cần lưu ý để suy ngẫm. Sau khi BLDS 2005 ra đời, cơ quan soạn thảo Bộ luật này đã biên soạn một cuốn tài liệu tập huấn về những vấn đề cơ bản của nó, trong đó có vấn đề hình thức và thời điểm giao kết hợp đồng mà chúng ta đang bàn tại đây. Cơ quan soạn thảo đã tiết lộ ý đồ khi soạn thảo: “BLDS quy định các bên được lựa chọn hình thức của hợp đồng, ví dụ bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Việc lựa chọn này chỉ bị loại trừ trong trường hợp pháp luật có quy định về một hình thức cụ thể bắt buộc. Tương ứng với mỗi loại hình thức hợp đồng nêu trên, BLDS xác định thời điểm giao kết hợp đồng phù hợp, trên cơ sở công nhận hiệu lực của cam kết, thỏa thuận giữa các bên, không phụ thuộc vào yếu tố hình thức của hợp đồng. BLDS quy định nguyên tắc chung đó là hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng miệng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng k‎ý vào văn bản. Về nguyên tắc, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được tính từ thời điểm giao kết nêu trên. Tuy nhiên, cần lưu‎ ý đó là các bên có thể thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, ví dụ Luật Đất đai quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp là thời điểm đăng k‎ý”3.