Đề tài Điểm mới của Luật Phá Sản (2004) so với Luật Phá sản Doanh nghiệp (1993) về thủ tục phá sản

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 4 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điểm mới của Luật Phá Sản (2004) so với Luật Phá sản Doanh nghiệp (1993) về thủ tục phá sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Luật Phá sản Doanh nghiệp (LPSDN) 1993 là đạo luật về phá sản đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành khi kinh nghiệm lập pháp về phá sản gần như không có. Luật Phá sản (LPS) 2004 ra đời đã khắc phục những hạn chế, bất cập của LPSDN 1993, bổ sung những nội dung mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm áp dụng LPSDN 1993, thể chế hóa chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước ta. Đặc biệt LPS 2004 đã có những điểm mới so với LPSDN 1993 về thủ tục phá sản( TTPS). Dưới đây là một số điểm mới đó: Thứ nhất, LPS đã dành riêng một điều luật (Điều 5) để quy định về TTPS. Theo Điều 5 LPS, TTPS là một thủ tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành (Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; Phục hồi hoạt động kinh doanh; Thanh lý tài sản, các khoản nợ; Tuyên bố doanh nghiệp, HTX bị phá sản) và giữa những thủ tục cấu thành đó có mối liên hệ với nhau. Tính thứ tự, nối tiếp nhau không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu thành và giữa chúng có sự độc lập tương đối “Sau khi có quyết định mở TTPS, tùy vào tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp, HTX mà thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ thục tục thanh lý tài sản, các khoản nợ khác hoặc chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc thủ tục tuyên bố doanh nghiệp, HTX bị phá sản” (khoản 2 Điều 5 LPS). Chính quy định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu thành trong TTPS đó cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách uyển chuyển tùy thuộc vào những tình huống cụ thể. Điểm mới nổi bật của TTPS trong LPS so với LPSDN mà chúng ta có thể thấy đó là những quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục thanh lí tài sản, các khoản nợ. Nếu LPSDN chưa thừa nhận những nội dung đó là những thủ tục cấu thành độc lập, chưa nhìn nhận được tính đặc thù về mối quan hệ giữa các thủ tục đó, coi phục hồi hoạt động kinh doanh gần như là một hoạt động bắt buộc trước hoạt động thanh lý. Thì LPS đã quy định phục hồi hoạt động kinh doanh là một thủ tục độc lập (tách bạch với hoạt động thanh lý tài sản, các khoản nợ) mà thẩm phán có thể quyết định áp dụng hay không áp dụng sau khi có quyết định mở TTPS tùy thuộc vào điều kiện của từng vụ việc cụ thể khi giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Ngoài ra, LPS quy định bổ sung về đối tượng có quyền xây dựng phương án phục hồi, theo đó không chỉ có doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải lập phương án phục hồi như LPSDN (Điều 20 LPSDN) mà bất kì chủ nợ hay người nào nhận nhiệm vụ phục hồi đều có quyền xây dựng phương án phục hồi. LPS cho phép kéo dài thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh (LPS thời hạn tối đa là 3 năm còn LPSDN tối đa không quá 2 năm). Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, HTX có thể phục hồi hoạt động kinh doanh của mình