Đề tài Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992

  • Người chia sẻ : vtlong
  • Số trang : 16 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Trong cơ chế Nhà nước ta, chế định Nguyên thủ quốc gia luôn luôn tồn tại và được tổ chức theo các hình thức khác nhau qua các Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 là hình thức Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng Nhà nước và Hiến pháp năm 1992 lại trở lại hình thức Chủ tịch nước. Trong từng Hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức Bộ máy Nhà nước Xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định Nguyên thủ quốc gia nói riêng.
Song, ở nước ta chức vụ Chủ tịch nước hay thể chế Hội đồng Nhà nước với Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tích chất và vai trò có lẽ không giống với Nguyên thủ quốc gia nào. Ở nước ta, Nghị viện theo Hiến pháp năm 1946 hay Quốc hội Hiến pháp tiếp sau luôn luôn là cơ quan quyền lực cao nhất và Chủ tịch nước là cơ quan đứng đầu Nhà nước. Quyền lực Nhà nước luôn luôn thống nhất, tập trung vào Quốc hội, có phân công , ohaan nhiệm theo bốn chức năng lậ pháp, hành pháp, xét xử và kiểm sát. Quốc hội trực tiếp thực hiện chức năng lập pháp và phân công chức năng hành pháp cho Chính phủ, chức năng xét xử cho Tòa án Nhân dân tối cao, chức năng kiểm sát cho Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Quốc hội bàu những người đứng đầu các cơ quan này, giám sát hoạt động của họ và khi cần thì miễm nhiệm bãi nhiệm họ. Như vậy, về nguyên tắc Quốc hội nắm cả các chức năng lập pháp, hành pháp, xét xử, kiểm sát, tuyệt đối không có vấn đề phân quyền.