Đề tài Các phương pháp xác định thềm lục địa theo quy định của Công ước Luật biển 1982

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 7 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các phương pháp xác định thềm lục địa theo quy định của Công ước Luật biển 1982, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Thềm lục địa có một vai trò và ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế mỗi quốc gia ven biển. Chính vì thế, nơi đây dễ xảy ra các tranh chấp về chế độ pháp lý của mỗi quốc gia. Nhằm tránh xảy ra các tranh chấp này và giữ gìn trật tự hòa bình an ninh trên biển, Công ước luật biển năm 1982 ra đời đã đưa ra những quy định rõ ràng và công bằng về phương pháp xác định thềm lục địa của quốc gia. Căn cứ khoản 1 Điều 76 Công ước luật biển năm 1982: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn.” Như vậy, bản chất của thềm lục địa được thể hiện rõ cả về phương diện tự nhiên và phương diện pháp lý. Về tự nhiên, đó là phần lãnh thổ đất liền mở rộng ra hướng biển, tại đó danh nghĩa chủ quyền tạo cho quốc gia các đặc quyền có tính chất đương nhiên. Về pháp lý, sự mở rộng lãnh thổ này không có ý nghĩa thiết lập vùng lãnh thổ mới của quốc gia, vì theo Luật biển quốc tế, biên giới biển của quốc gia được giới hạn bởi đường ranh giới phía ngoài lãnh hải và đó là sự bắt đầu của thềm lục địa pháp lý có cơ sở từ lãnh thổ đất liền.