Đề tài Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 7 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật TTHS. Đó là những quan hệ luôn có 1 bên là quyền lực cơ quan Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng, do vậy trong tố tụng hình sự các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưởng chế để tác động tới đối tựợng. Đặc điểm chung của các biện pháp cưởng chế là sự tác động một chiều không phụ thuộc vào ý trí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định. Tùy thuộc vào mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng hoặc những tiêu chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các biện pháp cưỡng chế thành những nhóm khác nhau và trong mỗi nhóm lại có những biệm pháp khác nhau, vói những trình tự thủ tục khác nhau : bao gồm 2 nhóm chính. Nhóm các biện pháp ngăn chặn và nhóm các biện pháp điều tra. Những biện pháp cưỡng chế điều tra có mục đích nhằm thu thập chứng cứ của vụ án làm căn cứ xem xét việc truy cứu THHS đối với người phạm tội, ví dụ như biện pháp khám xét có thể áp dụng đối với khám người, khám đồ vật, thư tín, khám chổ ở, địa điểm hoặc như biện pháp kê biên tài sản, tạm giữ đồ vật, tài liệu theo Điều 79 BLTTHS 2003 bao gồm các biện pháp sau: Bắt ( bao gồ bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã và bắt bị can bị cáo để tạm giữ, tạm giam cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, như vậy tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS hiện hành. Vấn đề đặt ra là biện pháp tạm giữ được áp dụng với những trường hợp nào. a. Đối tượng tạm giữ Điều 86 BLTTHS 2000 quy định về đối tượng, căn cứ và thẩm quyền áp dụng Biện pháp ngặn chặn tạm giữ. Theo quy định của điều luật này thì tạm giữ là việc cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm thời hạn chế tự do trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc trường hợp khẩn cấp. Mục đích của BPNC tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của người bi nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền đủ thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân của người thực hiện hảnh vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định quản lý cần thiết khác như, tạm giữ áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do cho người bị bắt. Nhìn chung đối tượng bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, tuy nhiên điều luật cũng không quy định bắt buộc trong tất cả mọi trường hợp bắt đó đều phải tạm giữ, mà trong một số trường hợp bắt người phạm tội quả tạng, nếy xét thấy hành vi phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng lại có nơi cư trú rõ ràng không có cơ sở để ch từng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra trong các trường hợp đó không cần thiết phải tạm giữ họ. Điều 86 BLTTHS 2003 cũng không quy định cụ thể các căn cứ áp dụng BPNC tạm giữ, mà căn cứ để tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và 82 BLTTHS năm 2003 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ. Điều luật cũng quy định những người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ là những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp theo quy định tại Điều 81 BLTTHS 2003. Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “ tạm giữ có thể áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu tú hoắc đối với người bị bắt theo quyết đinh truy nã”. Như vậy, việc tạm giữ có thể áp dụng với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang quy định tại các Điều 81 và 82 của BLTTHS, tức là các điều luật quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã cũng như đối với phạm tội tự thú hoặc đầu thú. Nhận thức về quy định này cho thấy biện pháp tạm giữ có thể được áp dụng với các đối tượng bị bắt khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã, người đầu thú, tự thú chứ không bắt buộc, nói cách khác, sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người bị bắt có thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Tinh thần này đã được quy định tại Điều 83 của BLTTHS. Khoản 1 Điều 83 quy định “ Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Như vậy, biện pháp tạm giữ là một BPNC độc lập, việc quy áp dụng biện pháp này phải có những căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người. Vấn đề đặt ra là khi nào cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ? Còn khi nào không cần thiết tạm giữ? Do vậy nên chăng cần quán triêt mục đích của tạm giữ trong TTHS. Mặc dù trong BLTTHS không quy định rõ mục đích của việc tạm giữ nhưng qua các điều luật về tạm giữ cho thấy việc tạm giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú là nhằm có điều kiện để tiếp tục xác minh thêm về hành vi phạm tội của người bị bắt, người ra tự thú, đầu thú để làm rõ thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án cũng như khởi tố bị can đối với người họ. Tinh thần này cũng đã được thể hiện qua các quy phạm tại các Điều như Điều 83 Điều 87 của BLTTHS. Khoản 3 Điều 87 quy định: “ Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”. Như vậy sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quà tang , hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ không thể không bị tạm giữ trong các trường hợp sau đây: – Các cơ quan có thẩm quyền xác đinh được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ. – Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố đối với người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã gia lện tạm giam với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định khởi tố cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ quan điều có thẩm quyền để cho bị được tại ngoại mà không cần thiết phải tạm giam bị can.