Cơ hội kinh doanh năng lượng sinh khối tại Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 90 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ hội kinh doanh năng lượng sinh khối tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Trong thập kỷ trước, quá trình công nghiệp hóa và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam đã dẫn tới mức tiêu thụ năng lượng ngày càng gia tăng. Việt Nam lúc đó được dự đoán là nước phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhiên liệu hóa thạch, và hiện đang là một quốc gia nhập khẩu ròng về năng lượng. Mục tiêu của Việt Nam là tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng thương mại sơ cấp từ 3% năm 2010 đến 5% năm 2020 và 11% năm 2050. Điều này cho thấy tiềm năng rất lớn về năng lượng sinh học trong tương lai gần. Thông qua bản báo cáo này, NL Agency sẽ xác định tiềm năng kinh doanh năng lượng sinh khối tại Việt Nam. Sinh khối ở Việt Nam sẵn có và dồi dào, được phẩn bố cả tập trung và rải rác trên toàn quốc. Việt Nam không có nhiều nhận thức cũng như kiến thức về tiêu chuẩn bên vững của Châu Âu và Hà Lan. Các vụ mùa năng lượng không dược trồng nhiều và vì thế không tạo được một nguồn sinh khối đáng kể. Với nghị định mới tập trung vào mảng nghiên cứu và phát triển (Research & Development – R&D), sử dụng các sản phẩm của cây cọc rào (Jatropha), và áp lực ngày càng tăng đối với thị trường sắn, các vấn đề về tính bền vững ngày càng trở nên quan trọng và cần được theo dõi. Vì vậy, cần tăng cường nâng cao nhận thức liên quan đến vấn đề bền vững. Một số chính sách liên quan đến năng lượng và môi trường hiện nay chủ yếu tập trung vào các mục tiêu nhưng đồng thời cũng phản ánh được các khuyến khích, hỗ trợ về đất đai và vốn, miễn giảm thuế, lệ phí cho hoạt động bảo vệ môi trường, . Tuy nhiên, những ưu đãi này được nhìn nhận rằng không đủ tính khả thi cho dự án năng lượng sinh học tại Việt Nam. Những ưu đãi dành cho biểu giá bán điện năng lượng tái tạo (feed-in-tariff) chưa có và các cuộc đàm phán hợp đồng mua bán điện được thực hiện đơn lẻ và chưa bao giờ đạt mức giá cao hơn mức giá bình quân. Vấn đề này được nhận diện là một trong những rào cản chính.