Cấu trúc mô của một số hệ cơ quan trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 59 trang
  • Lượt xem : 6
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cấu trúc mô của một số hệ cơ quan trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những vùng kinh tế trọng điểm nằm ở cực Nam của đất nước. Bên cạnh lúa gạo, ĐBSCL còn là vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất nước. Với hệ thống sông ngòi chằn chịt, ĐBSCL là nơi rất thuận lợi cho ngành nuôi trồng thủy sản phát triển, sản lượng thủy sản của vùng đã đóng góp 1 phần đáng kể vào sản lượng thủy sản xuất khẩu của cả nước, góp phần tăng thu nhập cho người dân. Sản lượng thủy sản của ĐBSCL chiếm khoảng 50%, diện tích nuôi trồng khoảng 60% và giá trị xuất khẩu thủy sản chiếm đến 51% của cả nước (Dương Nhựt Long, 2003). Chính vì thế phong trào nuôi trồng thủy sản đã và đang rất thu hút người dân, cùng với chính sách của nhà nước chuyển đổi cơ cấu ngành nghề loại bỏ đất nông nghiệp lạc hậu để chuyển sang nuôi thủy sản thì các mô hình nuôi: nuôi thâm canh, bán thâm canh, nuôi ao mươn vườn, nuôi kết hợp cá-lúa đang phát triển rầm rộ. Bên cạnh con tôm Sú thì cá Tra cũng là mặt hàng xuất khẩu rất quan trọng của vùng, được nuôi phổ biến ở Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp và được xuất khẩu sang các nước như: EU, Nga, ASEAN, Ucraina, Mỹ, Trung Quốc Tổng sản lượng cá tra, basa xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 đạt 383.2 nghìn tấn với kim ngạch đạt 974.12 triệu USD, tăng 31% về lượng và 26.07% so với năm 2006 Tuy nhiêntrong nuôi cá tra thâm canh thường nuôi với mật độ dày và sử dụng thức ăn nhiều nên lâu ngày dẫn đến nguồn nước bị ô nhiễm, mầm bệnh dễ có cơ hội tấn công và tình trạng dịch bệnh xuất hiện ngày càng nhiều và khó điều trị. Để điều trị có hiệu quả cao thì ph ải chuẩn đoán đúng được bệnh, phương pháp mô học có vai trò quan trọng trong khâu này. Nếu chỉ dựa vào những hình thái tổn thương bên ngoài mà không có các dữ kiện khác có liên quan đến cá tôm bệnh thì thường có những kết luận sai lầm vì những hình thái tổn thương của vài bệnh có thể giống nhau và gây nhầm lẫn trong chẩn đoán (Đặng Thị Hoàng Oanh, 2007).