Bài thuyết trình chương 16 quyết định cấu trúc vốn trong thực tiễn
- Người chia sẻ :
- Số trang : 45 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình chương 16 quyết định cấu trúc vốn trong thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trước khi đi vào nghiên cứu quyết định thực hành cấu trúc vốn trong thực tiễn, chúng ta cần nhắc lại khái niệm cấu trúc vốn là gì? Cấu trúc vốn đ ược định nghĩa là sự kết hợp số lượng nợ ngắn hạn thường xuyên, nợ dài hạn, vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường được dùng để tài trợ cho quyết định đầu tư của một doanh nghiệp.Ngược lại cấu trúc tài chính là sự kết hợp nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường được dùng để tài trợ cho quyết định đầu tư ở một doanh nghiệp.Như vậy, cấu trúc vốn chỉ l à một phần của cấu tr úc tài chính, tiêu biểu cho các n guồn tài trợ thường xuyên một doanh nghiệp. Và một cấu trúc vốn tối ưu của một doanh nghiệp là cấu trúc vốn thỏa mãn 03 mục tiêu sau: – Tối đa hóa thu nhập của chủ sở hữu – Tối thiểu hóa rủi ro – Tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn Rủi ro kinh doanh là một yếu tố quan trọng xác định cấu trúc vốn tối ưu và các công ty trong các ngành khác nhau sẽ có rủi ro kinh doanh khác nhau, do đó chúng ta sẽ dự đoán rằng cấu trúc vốn của các ngành sẽ khác nhau, điều này hoàn toàn đúng. Ví dụ, các công ty ngành dược phẩm nhìn chung là có c ấu trúc vốn khác với các công ty trong ngành hàng không. Ngoài ra, c ấu trúc vốn của các công ty trong cùng một ngành cũng khác nhau, điều n ày khó mà giải thích được.Các yếu tố nào có thể giải thích được sự khác biệt này?Để giải thích cho câu hỏi này, các nhà nghiên cứu và những nhà làm th ực tế đã phát triển nhiều lý thuyết. Lý thuyết cấu trúc vốn hiện đại xuất hiện từ năm 1958, khi giáo s ư Franco Modigliani và Merton Miller (chúng ta thường gọi lại MM) công bố bài báo có ảnh hưởng lớn nhất đến ngành tài chính (bài báo mang tên: “chi phí v ốn, tài chính công ty và lý thuy ết đầu tư” trên tờ American Economic Review vào tháng 6/1958. Cả hai ông đều cùng đạt giải Nobel cho công trình này). Với các gi ả định của mình, cụ thể: – Không có chi phí hoa hồng trong các giao dịch – Không có thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân – Không có chi phí kiệt quệ tài chính và chi phí phá s ản – Các nhà đầu tư có thể vay với cùng mức lãi suất như các công ty – Tất cả các nhà đầu tư có đầy đủ thông tin như ban giám đốc của công ty về các cơ hội đầu tư của công ty – EBIT không bị ảnh h ưởng bởi vay nợ MM đã chứng minh rằng giá trị của công ty không bị ảnh hưởng bởi cấu trúc vốn của công ty. Nói cách khác, kết quả nghiên cứu của MM chỉ ra rằng công ty tài trợ cho hoạt động như thế nào là không quan trọng, do vậy cấu trúc vốn của công ty không ảnh hưởng đếngiá trị công ty. GTDN (không sử dụng nợ) = GTDN (có sử dụng nợ) Tuy nhiên, những giả định trong nghiên cứu của MM là không thực tế, do vậy kết quả nghiên cứu này cũng còn những tranh cãi. Nhưng cũng cần nói một điều rằng, mặc dù một số giả định của MM là không thực tế, nhưng kết quả nghiên cứu của MM rất quan trọng.Bằng cách chỉ ra các điều kiện mà cấu trúc vốn không ảnh hưởng đến giá trị công ty, MM đ ã cung cấp cho chúng ta những minh chứng về các điều kiện đòi hỏi nào nếu cấu trúc vốn ảnh h ưởng đến giá trị công ty.Nghiên cứu của MM đánh dấu sự bắt đầu của các nghiên cứu về cấu trúc vốn hiện đại và các nghiên c ứu sau đó đã tập trung nới lỏng các giả định của MM để phát triển lý thuyết về cấu trúc vốn mang tính thực tế h ơn
