Luận văn Những vấn đề liên quan đến phát triển nông nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 47 trang
  • Lượt xem : 5
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những vấn đề liên quan đến phát triển nông nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

1. Tiếp cận thị trường a. Thuế hoá: Hiệp định nông nghiệp quy định các nước thành viên phải dỡ bỏ ngay lập tức các hàng rào phi thuế trong lĩnh vực nông nghiệp và chuyển thành biện pháp thuế quan. Tuy nhiên, có 3 ngoại lệ đối với việc chuyển đổi này. Đó là: – Các biện pháp được tiến hành theo điều khoản về cán cân thanh toán; – Các biện pháp được tiến hành theo các điều khoản chung của GATT 1994 (ví dụ như các biện pháp tự vệ, các biện pháp thuộc ngoại lệ chung (Điều XX, GATT 1994)); – Các nước lựa chọn không áp dụng biện pháp thuế hoá đối với một số mặt hàng và dành cho một lượng nhập khẩu nhất định mặt hàng này cơ hội tiếp cận thị trường tối thiểu đặc biệt. Mức tương đương thuế quan của các biện pháp phi thuế được tính dựa trên số liệu của năm 86 – 88. Mức tương đương thuế quan này cộng với mức thuế quan sẵn có tạo thành tổng mức thuế quan. Lịch trình và tỷ lệ cắt giảm tổng mức thuế quan được thực hiện như sau: Bảng 1 Nước Giai đoạn thực hiện Tỷ lệ cắt giảm Phát triển 1995 – 2000 Cắt giảm trung bình 36% (giảm tối thiểu 15% với mỗi dòng thuế) Đang phát triển 1995 – 2004 Cắt giảm trung bình 24% (giảm tối thiểu 10% với mỗi dòng thuế) b. Cơ hội tiếp cận thị trường: Để khắc phục tình trạng mức thuế nhập khẩu thực tế rất cao sau khi thuế hoá, trong Hiệp định nông nghiệp có ba khái niệm cụ thể quy định về cơ hội tiếp cận thị trường – theo đó phần giá trị nhập khẩu nằm trong giới hạn này sẽ được hưởng mức thuế suất thấp. – Cơ hội tiếp cận hiện tại: dành cho lượng hàng nhập khẩu ít nhất bằng với mức trung bình của 3 năm trong giai đoạn cơ sở 86 – 88. – Cơ hội tiếp cận tối thiểu: cơ hội tiếp cận thị trường tối thiểu trong năm 1995 phải ở mức không ít hơn 3% mức tiêu dùng hàng năm trong giai đoạn 86 – 88. Tỷ lệ này sẽ được tăng lên 5% vào cuối năm 2000 đối với các nước phát triển và vào cuối năm 2004 với các nước đang phát triển. – Cơ hội tiếp cận tối thiểu đặc biệt (áp dụng với những mặt hàng không tiến hành thuế hoá): đối với các nước phát triển, cơ hội tiếp cận tối thiểu đặc biệt là 4% mức tiêu dùng trung bình trong giai đoạn 86 – 88 và tăng dần 0,8% mỗi năm cho đến cuối năm 2000. Với các nước đang phát triển, tỷ lệ quy định tương ứng là 1% mức tiêu dùng hàng năm, 2% vào năm 1999 và lên đến 4% vào năm 2004. c. Các điều khoản tự vệ đặc biệt: Ngoài việc được phép áp dụng các biện pháp tự vệ để hạn chế nhập khẩu với mặt hàng có giá trị nhập khẩu tăng quá nhanh nhằm bảo hộ sản xuất trong nước theo quy định của điều 19 – GATT 1994, Hiệp định nông nghiệp cho phép các nước thành viên áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt mà không cần bất kỳ biểu hiện nào của việc gây ra (hoặc đe dọa gây ra) ảnh hưởng đối với sản xuất trong nước miễn là nông phẩm đó đã được thuế hoá và trong biểu cam kết của thành viên có ký hiệu SSG ở bên cạnh sản phẩm đó. Khi đó, biện pháp tự vệ trong nông nghiệp sẽ được áp dụng khi: • Giá nhập khẩu giảm xuống dưới mức giá lẫy và/hoặc • Lượng nhập khẩu vượt trên lượng nhập khẩu lẫy. Mức giá lẫy là giá CIF nhập khẩu trung bình sản phẩm đó trong giai đoạn 86 – 88 sẽ được các nước thành viên trình lên Uỷ ban Nông nghiệp và công bố công khai. 2. Hỗ trợ trong nước Hiệp định nông nghiệp phân loại các hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp thành các nhóm khác nhau căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của các biện pháp này đối với thương mại trong nông nghiệp, bao gồm: a. Hỗ trợ dạng hộp hổ phách: Đây là các biện pháp trợ cấp không được miễn trừ và phải bị cắt giảm. Theo đó, các biện pháp hỗ trợ này được lượng hoá trong Lượng trợ cấp tính gộp (AMS).