Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2005
- Người chia sẻ :
- Số trang : 46 trang
- Lượt xem : 6
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Theo Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á-Thái Bình Dương (ESCAP), với tốc độ tăng trưởng 8,4%, mức cao kỷ lục trong vòng 5 năm trở lại đây, là một con số biết nói lên tất cả, Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở khu vực Đông Nam Á trong năm 2005. Kết quả điều tra kinh tế xã hội trong khu vực của ESCAP cho thấy, ngành sản xuất là động lực chủ yếu của nền kinh tế và tăng trưởng trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp được ghi nhận ở mức 10,6%. Ngành dịch vụ cũng tăng trưởng mạnh với tốc độ 8,4%; trong khi ngành nông nghiệp tăng 4%. Sau khi phân tích nguyên nhân của tình trạng lạm phát năm 2005 ở mức cao do ảnh hưởng của hạn hán, cúm gia cầm và việc tăng giá hàng nhập khẩu, ESCAP cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã duy trì được chính sách tiền tệ thắt chặt và sử dụng nhiều chính sách khác để giảm bớt sức ép của lạm phát. Về hoạt động thương mại, xuất khẩu của Việt Nam ước tính tăng khoảng 20% trong năm ngoái, nhập khẩu tăng 22,5% do sản phẩm dầu khí đắt đỏ hơn và hoạt động xây dựng tăng mạnh dẫn tới tăng nhập khẩu sắt thép, nhu cầu tăng cao đối với phụ kiện ôtô, xe máy và hoá chất. Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai đã giảm từ mức -2% GDP trong năm 2004 xuống còn -0,9% GDP trong năm 2005. Thời gian qua, không chỉ cố gắng tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, Chính phủ Việt Nam còn mở rộng lợi ích của tăng trưởng kinh tế tới toàn xã hội bằng cách đầu tư vào giáo dục, y tế, nước sinh hoạt, và điện ở các vùng nông thôn. Công cuộc xoá nghèo là mối quan tâm hàng đầu ở Việt Nam và phương pháp tiếp cận của Chính phủ Việt Nam đối với vấn đề này đáng được khen ngợi. Xếp hạng cạnh tranh toàn cầu do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đưa ra hàng năm, đánh giá năng lực cạnh tranh tăng trưởng và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp của các quốc gia. Năm 2005, Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam giảm từ 77 xuống 81, chỉ số năng lực cạnh tranh doanh nghiệp từ 79 xuống 80.
