Luận văn Nuôi con nuôi thực tế ở Việt Nam theo pháp luật hiện hành

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 72 trang
  • Lượt xem : 7
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • NOIDUNG.doc
  • MUCLUC.doc
  • NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN.doc
  • TAI_LIEU_THAM_KHAO.doc
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nuôi con nuôi thực tế ở Việt Nam theo pháp luật hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật hôn nhân và gia đình trước đây. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định, quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ; Việc nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật. Việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi đã góp phần giúp cho nhiều trẻ em có được mái ấm gia đình thay thế trong và ngoài nước, giúp cho nhiều đứa trẻ có hoàn cảnh khó khăn được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt trở thành những người có ích cho xã hội. Đồng thời, thông qua việc giải quyết nuôi con nuôi cũng góp phần quan trọng bảo đảm cho những người đơn thân hoặc cặp vợ chồng hiếm con được thực hiện quyền làm cha mẹ. Tuy nhiên, thực tiễn về nuôi con nuôi còn cho thấy nhiều bất cập, nhiều trường hợp nhận và nuôi dưỡng trẻ em làm con nuôi nhưng không làm thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do trình độ am hiểu pháp luật của người dân còn thấp, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng ký nuôi con nuôi. Vì do không được pháp luật công nhận nên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích của cả người nhận nuôi và người được nuôi nhất là trong lĩnh vực thừa kế, nhiều tranh chấp về di sản, về quyền thừa kế đã xảy ra và đã gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết. Như chúng ta đã biết, bất kỳ một lĩnh vực nào trong đời sống cũng cần có sự điều chỉnh của pháp luật, nó cần phải có nguyên tắc, các quy định cụ thể để hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, nếu không có sự điều chỉnh của pháp luật thì các mối quan hệ sẽ trở nên rối rắm. Lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung cũng như nuôi con nuôi không đăng ký nhưng đã phát sinh trên thực tế nói riêng, việc bảo vệ quyền lợi của người được nuôi và người nhận nuôi là một lĩnh vực quan trọng trong thực tiễn đời sống. Đây là công việc khó khăn, đòi hỏi thời gian và sự tham gia của không chỉ các cơ quan nhà nước mà của toàn xã hội. Luật Nuôi con nuôi ra đời với những điều khoản quy định riêng về lĩnh vực nuôi con nuôi đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với những “công dân tí hon”, những chồi non của đất nước, tạo tính thống nhất, đồng bộ trong việc giải quyết nuôi con nuôi. Luật Nuôi con nuôi với quy định điều chỉnh đối với việc nuôi con nuôi không đăng ký, nhưng đã phát sinh trên thực tế (hay còn gọi là con nuôi thực tế) có ý nghĩa hết sức to lớn. Luật đã quy định rõ điều kiện và thủ tục riêng đối với con nuôi thực tế. Theo đó, việc nuôi con nuôi chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực giữa công dân Việt Nam với nhau nhưng có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi, khi trên thực tế quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đã được xác lập, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục nhau như cha mẹ và con và hiện tại sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực quan hệ đó vẫn đang tồn tại và cả cha mẹ nuôi và con nuôi đều còn sống thì được pháp luật công nhận và được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký nhận nuôi con nuôi trong thời hạn 05 năm bắt đầu kể từ ngày Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực (01/01/2011).