Đề tài Thuyết tương đối hẹp

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 56 trang
  • Lượt xem : 11
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuyết tương đối hẹp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Thế giới là vật chất tồn tại,vận động trong không gian và thời gian. Các quá trình vật lí là các quá trình vật chất xảy ra trong không gian và thời gian, nên các lý thuyết vật lí gắn liền với các khái niệm không gian, thời gian trong lịch sử phát triển của mình. Thế kỉ 20 tiếp cận với những chuyển động có vận tốc rất lớn, khi đó người ta thấy rằng cơ học Newton không còn thích hợp nữa. Từ đó người ta đặt vấn đề xem xét lại về các khái niệm không gian và thời gian. Và cũng từ đó, thuyết tương đối của Einstein ra đời, đánh dấu sự ra đời của vật lí học hiện đại. Thuyết tương đối liên quan đến mọi ngành vật lí, nhưng được gắn với Động lực học là vì:  Thuyết tương đối hẹp ra đời từ những khó khăn của điện động lực học, ví dụ như thí nghiệm đo vận tốc của ánh sáng. Sau này người ta thấy rằng trong hệ phương trình Maxwell đã tiềm ẩn lý thuyết tương đối hẹp. Cụ thể là hệ phương trình Maxwell bất biến qua phép biến đổi Lorentz chứ không phải phép biến đổi Galile.  Điện động lực học là khoa học về điện từ trường, vận tốc lan truyền của nó chính là vận tốc ánh sáng. Chính vì vậy không thể áp dụng cơ học Newton vào điện động lực học. Chính vì vậy khi học điện động lực học phải học song hành với lý thuyết tương đối hẹp.  Suốt hơn nửa thế kỷ từ khi Maxwell viết hệ phương trình điện động lực học nhưng các nhà khoa học không thể hiểu được nó vì vẫn tin vào ê-te là môi trường truyền ánh sáng. Thậm chí Lorentz khi viết ra phép biến đổi của mình 1904 cũng lý giải rằng do thuộc tính của ê-te. Puancare đã tìm ra hệ thức E=mc2 từ 1900 khi nghiên cứu điện động lực học nhưng chỉ khi Einstein hệ thống hóa lại thành lý thuyết tương đối hẹp thì mọi thứ của điện động lực học mới sáng tỏ. Chính vì vậy điện động lực học và lý thuyết tương đối hẹp cần phải học cùng với nhau. Với mục đích tìm hiểu rõ mối tương quan của Điện động lực học và Thuyết tương đối hẹp, qua đó xây dựng khả năng đón nhận những ý tưởng lớn của thuyết tương đối hẹp, mà nhóm tôi đã quyết định chọn đề tài:”THUYẾT TƯƠNG ĐỐI HẸP”