Bước đầu ứng dụng kỹ thuật southern blot phân tích đa dạng di truyên nấm magnaporthe grisea gây bệnh đạo ôn trên cây lúa
- Người chia sẻ :
- Số trang : 52 trang
- Lượt xem : 8
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bước đầu ứng dụng kỹ thuật southern blot phân tích đa dạng di truyên nấm magnaporthe grisea gây bệnh đạo ôn trên cây lúa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Magnaporthe grisea (Hebert) Barr. (anamorph, Pyricularia. grisea (Cooke) Sacc.) là nguyên nhân gây bệnh cho nhiều loài thực vật thuộc họ Gramineae, Cannaceae, Cyperaceae và Zingiberaceae [12]. Đặc biệt, loại nấm này là nguyên nhân gây bệnh cháy lá (đạo ôn) trên cây lúa (Oryza sativa), đây là một loại bệnh nghiêm trọng và gây tổn thất lớn đối với các nước trồng lúa trên thế giới. Hàng năm, năng suất lúa gạo do bệnh này gây ra giảm 30% trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, đạo ôn cổ gié đã gây hại 138.000 ha trong năm 1991 và 217.000 ha trong năm 1992 ở đồng bằng Sông Hồng. Bệnh cũng đã gây hại nghiêm trọng ở đồng bằng Sông Cửu Long từ 1978-1981 [11]. Theo báo cáo của Cục Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng diện tích bị nhiễm bệnh đạo ôn trong vụ Đông Xuân 2003 -2004 là 37.029 ha (tăng 3 lần so với Đông Xuân 2003), vụ Hè Thu 2006 là 38.346 ha lúa bị nhiễm đạo ôn lá và 4046 ha bị nhiễm đạo ôn cổ bông. Trong những năm gần đây, người trồng lúa đã áp dụng nhiều biện pháp phòng trừ như: phun thuốc diệt nấm và tăng cường trồng giống kháng trên diện rộng. Thuốc diệt nấm có thể giảm một phần thiệt hại của bệnh nhưng không tiêu diệt được bệnh. Những giống kháng có thể kháng được bệnh đạo ôn nhưng chỉ có thể duy trì được tính kháng trong một thời gian ngắn. Điều này có thể được giải thích rằng nấm Magnaporthe grisea có sự đa dạng di truyền trong quần thể [11]. Một số giả thuyết cho rằng những yếu tố chuyển vị (transposon) [12], thể dị hạch (heterokaryosis), và sự tái tổ hợp trong sinh sản hữu tính có thể là nguyên nhân tạo nên sự đa dạng di truyền trong quần thể nấm M. grisea [14].
