Chuyên đề Thực trạng, định hướng và giải pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu đến năm 2020
- Người chia sẻ :
- Số trang : 33 trang
- Lượt xem : 10
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng, định hướng và giải pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Trong suốt gần hai mươi tư năm mở cửa, từ năm 1986 cho đến nay (2010), Việt Nam gần như nhập siêu tất cả các năm (trừ năm 1992 có xuất siêu với giá trị không đáng kể), đặc biệt trong 4 năm trở lại đây, mức xuất siêu đã vượt trên mức 10 tỷ USD (trong đó năm 2008 là 18 tỷ USD, gần bằng 20% GDP). Chính điều này là một trong những nguyên nhân khiến không ít nhà kinh tế nhận định nền kinh tế Việt Nam thiếu đi tính ổn định cao, mặc dù chúng ta đã tăng trưởng liên tục trong suốt 20 năm qua với tốc độ khoảng 6%. Nhập siêu trường kỳ đã làm cho cán cân thanh toán (CA) luôn rơi vào trạng thái âm và dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đang có chiều hướng giảm dần, thậm chí cạn kiệt một khi dòng FDI và dòng ngoại hối không tăng thêm. Nguyên nhân nào khiến nhập siêu liên tục qua các năm và ở mức cao như vậy? Nếu như tình trạng nhập siêu chỉ diễn ra trong khoảng 10-15 năm thì sẽ không có gì đáng bàn nhưng nếu đó là 24 năm thì câu chuyện sẽ lại là khác. Phải chăng nền sản xuất nội địa của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều nên phải nhập khẩu lớn các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ bên ngoài? Câu trả lời chắc chắn là có. Bài nghiên cứu này, không đi sâu tìm hiểu câu trả lời đó mà đi tìm một trong những nguyên nhân lý giải cho biết tại sao nền sản xuất nội địa của chúng ta vẫn chưa tốt – vốn đầu tư và chính sách đầu tư đối với sản xuất hàng thay thế nhập khẩu và xuất khẩu. Thật khó có thể tìm được số liệu để minh chứng cho những nhận định có phần định tính và mang tính chủ quan của nhóm tác giả bởi trên thực tế, hiện nay, chúng ta chưa xác định rõ hàng hóa nào là hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng hóa nào là hàng hóa xuất khẩu. Bởi lẽ, một quốc gia mở cửa hội nhập kinh tế với thế giới thì quốc gia đó chắc chắn có cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu dù quốc gia đó dù có lợi thế tuyệt đối đ ến mấy (đã được minh chứng bằng cả lý thuyết và thực tiễn). Nhiều hàng hóa quốc gia nhập khẩu có lợi thế hơn là trong nước sản xuất và đó cũng là một nguyên nhân thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế mà Việt Nam cũng là “một người chơi”. Do vậy, không phải hàng hóa nhập khẩu nào cũng được xác định là hàng hóa cần thay thế nhập khẩu và tương tự, không phải hàng hóa xuất khẩu nào cũng là hàng hóa mà chúng ta mong muốn xuất khẩu, đặc biệt là nguyên, nhiên liệu thô và hàng sơ cấp, ít chế biến cho giá trị thấp. Một đặc điểm nữa, cần lưu ý, những hàng hóa mà ta cần thay thế nhập khẩu và hướng tới xuất khẩu trong thời gian hiện tại sẽ có thể không 2 còn phù hợp trong tương lai. Hay nói cách khác, chúng có tính “động” theo thời gian và trong báo cáo này là khoảng thời gian từ nay cho đến năm 2020
