Tình huống định tội giết người

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 4 trang
  • Lượt xem : 9
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình huống định tội giết người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Trong tình huống đã nêu trên, ta có thể xác định được giai đoạn phạm tội của T là giai đoạn phạm tội chưa đạt. Sở dĩ nói như vậy là bởi những nguyên nhân sau đây: Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có cơ sở để xác định phạm vi TNHS của người phạm tội, luật Hình sự Việt Nam phân biệt ba mức độ thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành (Điều 17, Điều 18 BLHS). Có thể thấy trong tình huống đã nêu, hành vi của T đã thỏa mãn các dấu hiệu để xác định đó là trường hợp phạm tội chưa đạt. Điều 18 BLHS quy định: “ Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội”. Thứ nhất, T đã bắt đầu thực hiện tội phạm – đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong Cấu thành tội phạm tội giết người (Điều 93 BLHS), đó là hành vi dùng dao nhọn đâm vào ngực K ba nhát liên tiếp. Thứ hai, T đã không thực hiện được tội phạm đến cùng (về mặt pháp lý) – hành vi của T chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của CTTP, T đã thực hiện được hành vi khách quan là đâm ba nhát vào ngực K nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm vì K không chết. Thứ ba, T đã có ý định giết K từ trước nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn nên đã không thực hiện được tội phạm đến cùng bởi K đã được cấp cứu kịp thời. Như vậy, theo điều 18 Bộ luật Hình sự (sửa đổi bổ sung năm 2009), hành vi của T thực hiện là giai đoạn phạm tội chưa đạt. Mặt khác, căn cứ vào thái độ, tâm lí người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện, có thể phân biệt phạm tội chưa đạt trong hai trường hợp là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Trường hợp thứ nhất: kẻ phạm tội vì những nguyên nhân khách quan chưa thực hiện được hết các hành vi cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm. Trường hợp thứ hai: kẻ phạm tội đã thực hiện các hành vi thoả mãn về mặt khách quan của một tội phạm nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn hậu quả không xảy ra. Vì T đã thực hiện đủ hành vi thỏa mãn về mặt khách quan (đã cầm dao đâm vào ngực K và bỏ đi) nhưng lại chưa đạt được mụa đích do K không chết nên hành vi của T thực hiện là giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.