Hội thảo Xử lý nước thải các ao nuôi cá nước ngọt bằng đất ngập nước kiến tạo
- Người chia sẻ :
- Số trang : 14 trang
- Lượt xem : 13
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hội thảo Xử lý nước thải các ao nuôi cá nước ngọt bằng đất ngập nước kiến tạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng hạlưu cuối cùng của hệthống sông Mekong đổra hai mặt biển Đông và Vịnh Thái Lan với tổng diện tích gần 4 triệu ha đất tựnhiên. Hằng năm, vùng đồng bằng thấp và phẳng này nhận hơn 450 tỷm 3 nước từsông Mekong đổ về, lượng mưa cao xấp xỉ2000 mm/năm, lượng nước ngầm phong phú và một hệthống sông rạch chằng chịt chịu đồng thời các tác động thủy triều của hơn 600 km bờbiển. Đặc điểm này đã tạo vùng ĐBSCL mang tính chất một vùng đất ngập nước rộng lớn và thường xuyên tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiêp và thủy sản. Người Việt Nam đã định cư ởvùng ĐBSCL ngót trên 300 năm, họ đã biết khai thác nguồn cá và nuôi cá hơn một thếkỷnay. Nghềcá được xem là nghềlàm giàu với nhiều câu nói từxưa: “Nhất canh trì, nhì canh viên”, hay “Muốn giàu nuôi cá, muốn khá nuôi heo, ”, v.v Cùng với sựgia tăng sản lượng lúa, ngành thủy sản cũng đã đóng góp một nguồn thu khá lớn cho đất nước: năm 2005 vùng ĐBSCL đã đóng góp 68% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản trên toàn quốc, đạt trên 1,4 triệu tấn; kim ngạch xuất khẩu hơn 1,4 triệu USD. Theo sốliệu của Tổng cục Thống kê (2006), chỉtrong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2005, diện tích nuôi trồng thủy sản vùng ĐBSCL đã tăng gần đôi, từ 445.300 ha lên đến gần 700.000 ha (Bảng 1). Khi đó, tổng sản lượng thủy sản thì tăng gấp ba trong thời kỳ2000 – 2005 (Bảng 3). Các năm 2006 và 2007 xuất hiện sựbùng phát hiện tượng nông dân ồ ạt bỏlúa, phá vườn rồi đào ao nuôi cá, nuôi tôm.
