Đề tài Giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân quận Tân bình, thành phố Hồ Chí Minh

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 89 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân quận Tân bình, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế và đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO); đồng thời, để thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về “đẩy mạnh tranh tụng tại phiên tòa” và yêu cầu cụ thể hóa “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” quy định tại khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp năm 2013; ngày 25-11-2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 đã sửa đổi, bổ sung những quy định về việc giao nộp chứng cứ, tiếp cận chứng cứ, phiên họp về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ so với BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) nhằm bảo đảm tăng cường sự công khai, minh bạch, tạo điều kiện tốt hơn cho các bên đương sự thực hiện quyền tranh tụng của mình và bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, các cá nhân, cơ quan, tổ chức thậm chí là các chủ thể áp dụng pháp luật đều cho rằng Tòa án là chủ thể có trách nhiệm xác định những TLCC nào cần phải có để chứng minh cho yêu cầu của đương sự là có căn cứ và hợp pháp. Trong khi chính bản thân các đương sự mới thực sự hiểu rõ “nội tình” bên trong những tranh chấp đó là gì, mới biết rõ mình đang nắm giữ những gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, những quy định mới này vẫn chưa phát huy được vai trò mà các nhà làm luật đặt ra mà ngược lại đang trở thành một quyền luật định mà các đương sự không có thiện chí lợi dụng nhằm kéo dài thời hạn giải quyết VADS tại Tòa án và thậm chí dẫn đến việc hủy án vì Tòa án thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ khách quan khiến cho lượng án tồn đọng ngày càng nhiều.