Tóm tắt Luận văn Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ chấp nhận mô hình thẻ điểm cân bằng trong quản trị chiến lược tại các doanh nghiệp Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 27 trang
  • Lượt xem : 10
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ chấp nhận mô hình thẻ điểm cân bằng trong quản trị chiến lược tại các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Trong xu thế hội nhập và cạnh tranh đang diễn ra một cách nhanh chóng như hiện nay, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và hết sức cấp bách của chính phủ Việt Nam. Trong những năm gần đây, với sự trợ giúp của chính phủ cũng như các tổ chức quốc tế, nhiều mô hình, công cụ quản trị doanh nghiệp hiện đại như: Hệ thống quản trị chất lượng ISO, quản trị theo mục tiêu (MBO); quản lý chất lượng toàn diện (TQM); đã được đưa vào áp dụng và thực tế đã mang lại hiệu quả rất thiết thực cho các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN). Thẻ điểm cân bằng (Balanced Scorecard – BSC) là công cụ quản trị được Giáo sư Robert S. Kaplan thuộc trường kinh doanh Harvard và David Norton – một nhà tư vấn nổi tiếng về quản trị doanh nghiệp cùng phối hợp đề cập, phát triển vào những năm đầu của thập niên 1990 và đã thực sự tạo ra cơn địa chấn trong giới khoa học về quản trị. Từ khi được chính thức giới thiệu (1992) đến nay, theo thống kê cho thấy đã có 40 quốc gia trên thế giới, một nửa trong số 1000 công ty trong danh sách Fortune 1000 và đặc biệt là có đến 65% doanh nghiệp tại Mỹ sử dụng phương pháp này. Điều này phần nào đã chứng minh được tính hiệu quả của nó. Ở Việt Nam, theo bản khảo sát nhanh của Vietnam Report đối với 500 doanh nghiệp tham dự lễ công bố VNR500 năm 2009 kết quả cho thấy chỉ có 7% đang áp dụng, 36% đang có dự định áp dụng và 57% chưa áp dụng.