Luận án Ảnh hưởng của di cư lao động đến phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 220 trang
  • Lượt xem : 13
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_anh_huong_cua_di_cu_lao_dong_den_phat_trien_kinh_te.pdf
  • QD_HD cap Hoc vien_Dong Thanh Mai.pdf
  • QTNL_TTLA_Dong Thanh Mai.pdf
  • TTT_Dong Thanh Mai.doc
  • TTT_Dong Thanh Mai.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ảnh hưởng của di cư lao động đến phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, giai đoạn 1960 – 1970, dân số thành thị của Hàn Quốc tăng lên nhanh chóng, trung bình mỗi năm tăng khoảng 7%, trong đó chứng kiến hàng trăm nghìn người từ các tỉnh nghèo di cư đến các thành phố lớn như thủ đô Seoul. Đồng thời các tập đoàn lớn (Chaebol) của Hàn Quốc cần rất nhiều lao động giá rẻ và người nhập cư chính là mục tiêu chính mà họ muốn thu hút. Có khoảng 51,2% người di cư đến Thủ đô Seoul là do công việc đã gia tăng tỷ lệ đô thị hóa của nơi này lên 72% (Mobrand, 2006). Tuy nhiên sự xuất hiện của quá nhiều người nhập cư đến đã gây ra những ảnh hưởng về mặt kinh tế – xã hội của người dân thành thị như giá cả hàng hóa leo thang, thiếu nhà cho thuê, trường học đông đúc. Chính quyền thủ đô Seoul muốn giảm bớt gánh nặng này và đã có những chính sách ưu đãi cho cư dân thành thị bằng trợ giá sản phẩm, ưu đãi đầu tư vào các dịch vụ công. Để quản lý người di cư, Hàn Quốc cũng sử dụng chính sách hộ khẩu. Tuy nhiên, việc kiểm soát dòng di cư của chính quyền Seoul không gay gắt như Trung Quốc. Vì vậy trong giai đoạn này, di cư nội địa của Hàn Quốc diễn ra mạnh mẽ với khoảng gần nửa triệu người di cư trong giai đoạn 1965 – 1970 đến thủ đô Seoul (Lee & Farber, 1985). Để giảm tải áp lực cho dân số Thủ đô, chính phủ Hàn Quốc đã mở rộng quy hoạch và di dời nhà máy, trường học, bệnh viện ở trung tâm thủ đô ra khu vực các tỉnh lân cận, tạo nên vùng thủ đô Seoul. Vùng thủ đô Seoul thường được người dân Hàn Quốc gọi là Sudogwon, một khu vực bao gồm hai thành phố chính (Seoul, Incheon) cùng tỉnh Gyeonggi ở phía Tây Bắc và những thành phố vệ tinh xung quanh khác như: Suwon, Goyang, Seongnam, Bucheon chiếm diện tích 11,8% tổng diện tích cả nước. Vùng này phát triển mạnh mẽ về công nghiệp, dịch vụ và là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước đã thu hút rất nhiều người dân từ các tỉnh xa đến sinh sống và làm việc. Nếu như năm 1970, vùng thủ đô Seoul chỉ chiếm 28,7% dân số cả nước, con số này tăng liên tục, đến năm 1990 dân số của khu vực chiếm 42,8% dân số cả nước và đến năm 2019 dân số toàn khu vực ước tính lên đến 27 triệu người, tương ứng khoảng 49,2% dân số Hàn Quốc với hơn một nửa trong số đó là người di cư từ nơi khác đến. Ngoài di cư lao động nội địa, vùng thủ đô Seoul còn đón nhận một lượng rất lớn LĐNC từ nước ngoài do việc thiếu nhân lực trình độ thấp của các Tập đoàn lớn vào những năm 1990s và xu hướng già hóa dân số chung của Hàn Quốc. Việc tăng dân số và DCLĐ đã góp phần nên sự giàu có và phát triển kinh tế của nơi này, tuy nhiên cũng tạo áp lực về chi phí sinh hoạt, mật độ dân số, tính cạnh tranh cao trong tất cả các lĩnh vực (Seol, 2018). Để giải quyết sự bùng nổ dân số của vùng thủ đô Seoul, năm 2007 chính quyền Hàn Quốc đã lên kế hoạch thiết lập một trung tâm hành chính kinh tế xã hội mới, đến năm 2012 thành phố Sejoing được thành lập, cách thủ đô Seoul về phía Nam 150km với 39 bộ và cơ quan trực thuộc chính phủ, khoảng 10 cơ quan nhà nước được di dời về đây, trong đó có văn phòng Thủ tướng. Khu vực này đã được đầu tư 160 nghìn tỷ won để xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, điện, khí đốt, bệnh viện, trường học và di dời các nhà máy xí nghiệp, trung tâm công nghệ cao, công nghệ thông tin đến đây. Từ đó thu hút người dân, nhà đầu tư, doanh nghiệp và LĐDC chuyển đến đây sinh sống và làm việc, giảm bớt gánh nặng cho vùng thủ đô Seoul (Kang, 2012). Bên cạnh đó, chính phủ Hàn Quốc và chính quyền Seoul đã ban hành chính sách nhà ở cho người nhập cư như chương trình nhà ở công cộng hoặc “Chương trình kế hoạch mua nhà lần đầu” với mức vay lên đến 70% tổng giá trị căn nhà hoặc 100 triệu won với lãi suất thấp (6%-6,5%/ năm).