Luận án Nghiên cứu tài chính cho chuỗi giá trị sữa tươi tại khu vực đồng bằng sông Hồng
- Người chia sẻ :
- Số trang : 261 trang
- Lượt xem : 6
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_nghien_cuu_tai_chinh_cho_chuoi_gia_tri_sua_tuoi_tai.pdf
QD_HD cap Hoc vien_Le Thi Thanh Hao.pdf
QTKD_TTLA_Le Thi Thanh Hao.pdf
TTT_Le Thi Thanh Hao.doc
TTT_Le Thi Thanh Hao.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu tài chính cho chuỗi giá trị sữa tươi tại khu vực đồng bằng sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Chăn nuôi bò sữa là lĩnh vực có tính rủi ro cao, tập trung chủ yếu ở khâu SX như rủi ro dịch bệnh, rủi ro tăng giá yếu tố đầu vào. Rủi ro cao, lợi nhuận thấp có thể khiến hộ CNBS không có động lực trong việc tái đàn, ảnh hưởng tới nguồn sữa tươi nguyên liệu được cung cấp cho các NMS và ảnh hưởng tới việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Vì vậy, bảo hiểm cho CNBS được cho là công cụ tài chính nhằm chia sẻ rủi ro đối với hộ CNBS. Công cụ này đã được áp dụng trong mô hình liên kết giữa Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu với các hộ CNBS tại đây (Nguyễn Mậu Dũng & Lê Kim Oanh 2016). Mộc Châu là một huyện thuộc tỉnh Sơn La, vùng trung du & miền núi Việt Nam. Năm 2015, quy mô đàn bò sữa ở đây chiếm 82,61% tổng đàn bò của tỉnh và chiếm 69,77% tổng đàn bò của khu vực (Tổng cục Thống kê, 2016). Đàn bò sữa tại huyện Mộc Châu được chăn nuôi chủ yếu tại các hộ xung quanh Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu và gặp nhiều khó khăn về phát triển đàn do rủi ro về dịch bệnh và thị trường. Vì vậy, để giúp các hộ CNBS yên tâm chăn nuôi, ổn định nguồn sữa tươi nguyên liệu cho công ty, từ năm 2004 Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu đã xây dựng mô hình bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) cho CNBS và được đánh giá là thành công do cơ chế hoạt động phù hợp. Nghiên cứu của Nguyễn Mậu Dũng & Lê Kim Oanh (2016) đã làm rõ cơ chế hoạt động cũng như bài học kinh nghiệm rút ra từ sự thành công của mô hình này. Cụ thể: (1) Loại bảo hiểm: Bao gồm bảo hiểm bò sữa và bảo hiểm giá sữa. Đây là 2 loại bảo hiểm về 2 nội dung rất quan trọng đối với hộ CNBS, ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của hộ; (2) Đối tượng tham gia: là các hộ CNBS của công ty, được công ty kiểm soát về đất đai và những hộ cam kết ký hợp đồng bán sữa nguyên liệu cho công ty. Hộ chỉ được mua bảo hiểm khi đảm bảo các tiêu chuẩn về chuồng trại, chế độ dinh dưỡng, kỹ thuật. Các hộ có bảo hiểm sẽ được công ty hỗ trợ về tập huấn, kỹ thuật phòng bệnh, đầu vào và thưởng sữa. Các hoạt động này cũng góp phần giảm rủi ro cho hộ CNBS; (3) Cơ cấu tổ chức: Quỹ bảo hiểm thuộc Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu và Ban quản lý quỹ sẽ đại diện công ty quản lý quỹ. Ban quản lý quỹ bảo hiểm có 13 thành viên, trong đó 10 thành viên là do các hộ CNBS mua bảo hiểm bầu ra nên có thể coi đây là mô hình tự quản của hộ CNBS; (4) Việc giám định để xác định nguyên nhân rủi ro, tổn thất có sự tham gia của nhiều thành phần nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng, chính xác; (5) Hình thức bồi thường linh hoạt: bằng bò hoặc bằng tiền, tùy thuộc vào quy mô đàn bò tính trên một đơn vị diện tích của hộ (10-15 con/ha) và nhu cầu của hộ (khi đã đảm bảo quy mô đàn), qua đó góp phần ổn định quy mô đàn bò cung cấp sữa cho NMS. Tuy nhiên, một số hạn chế của mô hình BHNN này đã được nghiên cứu cũng chỉ ra là: Cần có hỗ trợ của công ty do doanh thu của quỹ bảo hiểm vật nuôi không đủ bù đắp tiền bồi thường rủi ro về vật nuôi của hộ và việc xác định nguyên nhân xảy ra rủi ro chưa thực sự thuyết phục. Đây cũng là 2 hạn chế lớn trong BHNN dẫn tới khó khăn trong việc triển khai mô hình BHNN trên diện rộng tại Việt Nam.