Luận án Hoàn thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hải Phòng
- Người chia sẻ :
- Số trang : 223 trang
- Lượt xem : 12
- Lượt tải : 500
Các file đính kèm theo tài liệu này
luan_an_hoan_thien_moi_truong_kinh_doanh_cho_doanh_nghiep_tr.pdf
ĐÓNG GÓP MỚI NAM TA.docx
ĐÓNG GÓP MỚI NAM TV.doc
TÓM TẮT NAM.pdf
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoàn thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Nhóm các nghiên cứu này bao gồm các bài báo, chuyên đề, các đề tài khoa học, luận án tiến sĩ về môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Tiêu biểu có các nghiên cứu sau: Stoyan Tenev, Amanda Carllier (2003) trong “Hoạt động không chính thức và MTKD ở Việt Nam” nhấn mạnh hoạt động phi chính thức cần phải khắc phục trong quá trình kinh doanh tại Việt Nam. Hoạt động nghiên cứu của nhóm tác giả dựa trên các tiêu chí: (1) chi phí không chính thức; (2) vấn đề tham nhũng và sự phiền nhiễu đối với doanh nghiệp bằng việc lượng hóa các chỉ tiêu định tính về các rào cản, cụ thể: Để đạt được giấy phép kinh doanh, quyền sử dụng đất thông thường DN phải chi phí hết bao nhiêu? Đo lường mức độ tham nhũng thông qua giá trị các món quà nhân dịp lễ, tết so với doanh thu (hay lợi nhuận) trong kế hoạch chi tiêu của DN; Đo lường thời gian hoàn tất các thủ tục so với quy định của Nhà nước Hệ quả của sự kiểm soát quá mức kèm theo những TTHC phức tạp của chính quyền địa phương dẫn đến mức độ phi chính thức ở Việt Nam cao. Theo tác giả, hoạt động không chính thức không giúp giảm gánh nặng chi phí hành chính cho DN mà trái lại DN càng phải dành nhiều thời gian và chi phí để đối phó với những quy định, do đó phải tiến hành cải cách TTHC trong thời gian tới. Hakkala và Kokko (2007) nhận thấy mặc dù những cải cách kinh tế trong thời gian qua ở Việt Nam đã dần tạo được môi trường kinh doanh công bằng hơn, những quy định và chính sách đang dần trở nên thân thiện và thuận lợi hơn cho khu vực tư nhân, nhưng những cản trở lớn nhất đối với các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) vẫn nằm ở những ưu đãi đối khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong khả năng tiếp cận thị trường, vốn, đất đai tạo hiệu ứng lấn át các DNTN. Qua đó, nhóm tác giả cho rằng, việc tạo lập được MTKD bình đẳng giữa các DNTN và DNNN là vô cùng quan trọng, tuy nhiên ngay cả khi những biện pháp mạnh và triệt để được thực hiện thì các doanh nghiệp khu vực tư nhân, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng khó có thể cạnh tranh được trong những ngành thâm dụng vốn và kĩ năng công nghệ, vốn vẫn do các DNNN, doanh nghiệp có vốn nước ngoài chiếm ưu thế. Vì thế chính phủ cũng cần có những biện pháp khác để nâng cao được năng lực cạnh tranh của các DNTN. Tenev và các đồng nghiệp (2003) cho rằng sự cạnh tranh không công bằng được coi là điều kiện khắc nghiệt nhất mà các DNTN phải trải qua. Có đến 42% doanh nghiệp ở khu vực này phàn nàn những ưu đãi dành cho các DNNN là những cản trở chính cho quá trình sản xuất kinh doanh.
