Luận án Nhân lực cho phát triển hải quan thông minh ở Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 248 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_nhan_luc_cho_phat_trien_hai_quan_thong_minh_o_viet_n.pdf
  • CV đăng tải luận án TS của NCS Lê Hạnh Vân.pdf
  • Thông tin đóng góp mới_NCSK36_Lê Hạnh Vân.pdf
  • Tóm tắt luận án (tiếng Anh)_NCSK36_Lê Hạnh Vân.pdf
  • Tóm tắt luận án (tiếng Việt)_NCSK36_Lê Hạnh Vân.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nhân lực cho phát triển hải quan thông minh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

4. Những đóng góp khoa học mới của luận ánThứ nhất, Luận án hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân lực và nhân lực hải quan, làm rõ khái niệm về nhân lực cho phát triển Hải quan thông minh. Nhân lực cho phát triển Hải quan thông minh ở ViệtNam là đội ngũ cán bộ thế hệ mới của ngành Hải quan với cơ cấu, số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, hướng tới mô hình quản lý nghiệp vụ thông minh, phù hợp với chuẩn mực chung của hải quan thế giới. Thứ hai, trên cơ sở dữ liệu thu thập được luận án phân tích thực trạng nhân lực của ngành Hải quan theo chuẩn mực của nhân lực cho phát triển Hải quan thông minh đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế quốc gia cũng như xu thếhiện đại của thế giới. Từ đó, làm rõ các yêu cầu đặt ra và đánh giá mức độ đáp ứng của nhân lực cho phát triển Hải quan thông minh ở Việt Nam. Thứ ba, giai đoạn 2019 – 2023, ngành Hải quan đã đạt được một số thành công trong triển khai các hoạt động cải cách, đổi mới quản trị nhân lực trên cơ sở thực hiện Chiến lược phát triển hải quan đến năm 2030. Tuy nhiên, một số khía cạnh liên quan đến công tác quản lý và phát triển nhân lực của ngành còn tồn tại hạn chế, đó là: 1) Năng lực làm việc của cán bộ hải quan chưa hoàn toàn đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi số, hướng đến Hải quan thông minh (phần lớn cán bộ hải quan mới chỉ có trình độ công nghệ thông tin và ngoại ngữ ở mức độ cơ bản, sơ cấp…); 2) Việc sử dụng kết quả đánh giá năng lực vào công tác tổ chức cán bộ còn hạn chế; thiếu ứng dụng công nghệ thôngtin, công cụ quản lý số và phương pháp quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế trong công tác phát triển nhân lực; 3) Mức độ thực hiện kỷ cương của cán bộ hải quan mới cơ bản đƣợc cộng đồng doanh nghiệp đánh giá ở mức độ“Trung bình” và vẫn còn tỉ lệ nhỏ đánh giá ở mức độ “Thấp” và “Rất thấp”.