Đề tài Những yếu tố tâm lý, Xã hội trong thực thi pháp luật tại Việt Nam

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 5 trang
  • Lượt xem : 10
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những yếu tố tâm lý, Xã hội trong thực thi pháp luật tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Quy phạm pháp luật không có hiệu lực một cách tự động theo kiểu “mệnh lệnh – hiệu lực”. Để khơi gợi được sự hưởng ứng theo các yêu cầu đặt ra, trước tiên các quy phạm pháp luật phải đi vào nhận thức, tâm lý của con người và “dấu vết” để lại đó được thể hiện qua những quan điểm, thái độ và những định hướng nhất định của mỗi người. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà những quan điểm, thái độ này có thể có những mặt tích cực và cả những khía cạnh tiêu cực. Vấn đề là ở chỗ, cần phải chuẩn bị cho đối tượng được tiếp cận với pháp luật và hình thành ở họ thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Trong số các biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật thì việc dự báo hệ quả xã hội của hiệu lực pháp luật, sự chuẩn bị về mặt lý luận các hướng giải quyết những mâu thuẫn có thể xảy ra trong quá trình thực thi, việc nghiên cứu môi trường hiệu lực của pháp luật là những việc có ý nghĩa rất quan trọng[1]. 1. Tâm lý và lợi ích cá nhân Ngay từ thời kỳ trước Cách mạng tháng 10 Nga, trong khoa học pháp lý của Nga đã có quan điểm cho rằng, cần phải xem xét một cách tổng thể các yếu tố tâm lý cá nhân trong cơ chế thực thi pháp luật như: các lợi ích, nhu cầu, mục đích, nguyện vọng, sự hiểu biết về pháp luật Trong mọi trường hợp, dù chủ thể thực thi pháp luật là một tập thể hay từng cá nhân, chúng ta đều có thể tìm thấy hành vi của họ nhằm vào việc thực hiện hoặc liên quan đến việc thực hiện các yếu tố đó[2]. Vì hành vi của con người được hình thành từ những động cơ mang tính chủ quan, nên trong quá trình thực thi pháp luật, bên cạnh các lợi ích, không thể không tính đến mức độ hiểu biết pháp luật, các nhu cầu, nguyện vọng, mục đích của chủ thể. Nhấn mạnh yếu tố chủ quan, Rêsetôv cho rằng: “Cần phải làm sao để mỗi công dân nhận thức được một cách rõ ràng cách thức và biện pháp thực thi các quyền của mình, biết vận dụng chúng và hiểu được mối liên hệ không tách rời giữa quyền và nghĩa vụ. Đây là một kênh cần thiết để củng cố sự thống nhất giữa các lợi ích của nhà nước với lợi ích cá nhân, đồng thời cũng nhằm hoàn thiện quá trình thực thi pháp luật”[3]. Mối liên hệ giữa quá trình và kết quả thực thi pháp luật với tâm lý của con người cũng được Giavadxkaia khẳng định: “Thực thi pháp luật là bằng chứng của sự tin tưởng và ủng hộ của xã hội công dân, của cộng đồng đối với cơ quan lập pháp. Việc xã hội công nhận và ủng hộ pháp luật góp phần hạn chế những phức tạp trong cơ chế thực thi. ở đây muốn nói tới ý thức tự nguyện, sự nhiệt tình của mỗi công dân, của mỗi tổ chức và cộng đồng với việc thực hiện các nghĩa vụ của mình”[4]. Bên cạnh đó, Giavadxkaia còn cho rằng, ý thức coi thường pháp luật dẫn đến hàng loạt những vi phạm pháp luật cũng mang tính chủ quan. Đó là ý thức chống đối (chủ động hoặc thụ động) của những chủ thể khác nhau, là sự không thừa nhận và coi thường các quy định pháp luật. Tất nhiên là theo đó, cả các cơ chế, mục đích, các biện pháp được quy định trong luật cũng sẽ không được họ ủng hộ[5].