Đề tài Một số ý kiến về việc hoàn thiện Luật Công đoàn trong bối cảnh hiện nay
- Người chia sẻ :
- Số trang : 10 trang
- Lượt xem : 9
- Lượt tải : 500
- Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến về việc hoàn thiện Luật Công đoàn trong bối cảnh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên
Sự cần thiết phải hoàn thiện Luật Công đoàn Thứ nhất, để khắc phục sự lạc hậu của Luật Công đoàn năm 1990. Luật Công đoàn năm 1990, mặc dù với nội dung còn quá rộng khi quy định nhiều chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ quan trọng của công đoàn, nhưng được nhìn nhận là một đạo luật đã bước đầu bắt nhịp được với đời sống lao động mới. Có nhiều nội dung của Luật Công đoàn năm 1990 đã thực sự đi vào cuộc sống, trong đó nổi bật là các quyền của công đoàn trong việc đại diện – bảo vệ người lao động (không phân biệt có phải là thành viên của công đoàn hay không). Cũng chính vì sự tham gia của công đoàn vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống lao động như: giao kết hợp đồng lao động, ký kết thoả ước lao động tập thể, xây dựng nội quy lao động, xử lý kỷ luật lao động và xa hơn là tham gia cùng các cơ quan nhà nước, Chính phủ về các vấn đề lao động, đã tạo cho công đoàn uy tín trước người lao động, làm cho người lao động tin tưởng hơn, từ đó số lượng công đoàn viên đã tăng đáng kể, dẫn đến phát sinh nhiều mối quan hệ mới cần có sự điều chỉnh kịp thời. Do vậy, cần phải thay bằng “cái áo” khác rộng hơn cho Luật Công đoàn hiện hành. Thứ hai, để đảm bảo sự phù hợp với những nội dung của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước và của thị trường lao động ở Việt Nam. Trước đây, khi Luật Công đoàn năm 1957 ra đời, Việt Nam đang trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, các quy định của Luật Công đoàn chủ yếu tập trung quy định những nhiệm vụ cơ bản của người lao động trong khu vực nhà nước. Vì vậy, các hoạt động công đoàn chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ động viên, khuyến khích công nhân, viên chức và người lao động phát huy tinh thần yêu nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc1. Luật Công đoàn năm 1990 ra đời trong bối cảnh Việt Nam đã có đường lối đổi mới theo tinh thần Hiến pháp năm 1980, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986). Luật Công đoàn năm 1990 ra đời khi Việt Nam đã bắt tay thực hiện những quy định đổi mới sản xuất, kinh doanh theo Quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 về đổi mới quyền tự chủ trong các xí nghiệp quốc doanh và tiếp đến là triển khai thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (29/12/1987). Nền kinh tế Việt Nam thời kì đầu những năm 1990 đang dần chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Do đó, tổ chức công đoàn không chỉ tồn tại trong các cơ quan, xí nghiệp nhà nước mà đã xuất hiện trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo ba loại hình: xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp một trăm phần trăm vốn nước ngoài và các xí nghiệp được thành lập theo hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Tuy nhiên, dầu sao, ở thời kì đó, công đoàn vẫn là một tổ chức ít chịu tác động lớn của kinh tế thị trường. Sự bao cấp cả về kinh tế, tư tưởng, phương thức hoạt động đã làm cho công đoàn không phải là tổ chức xã hội có sự phản ứng nhanh, mạnh mẽ đối với sự đổi mới của nền kinh tế, xã hội. Vào nửa cuối những năm 1990, khi Bộ luật Lao động có hiệu lực (1/1/1995), sự tiếp cận cơ chế thị trường của công đoàn bắt đầu có những thay đổi lớn. Công đoàn đã phải xây dựng kế hoạch phát triển công đoàn viên bởi số lao động trong doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh do quá trình chuyển đổi kinh tế2. Nền kinh tế nhiều thành phần theo “thể chế thị trường” được đưa vào mục tiêu chiến lược 10 năm (2001 – 2010) tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã trở thành một điểm nhấn về chính trị – xã hội trong hoạt động công đoàn. Hiện nay, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội, quan hệ lao động đã có sự phát triển mới, với việc xác định xây dựng thị trường lao động và sự hình thành cơ chế ba bên trong quan hệ lao động. Những vấn đề về lao động xã hội được Đại hội lần thứ X của Đảng xác định như một quyết tâm lớn của xã hội3. Thứ ba, để đảm bảo vận động của Luật Công đoàn đúng với tiến trình và quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Công đoàn đứng trước một thực trạng mới trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Điều đó có nghĩa là, các vấn đề liên quan đến tư cách pháp lý của cá nhân, tổ chức đều phải dựa trên nền tảng pháp luật. Việc thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn trong quan hệ lao động và trong xã hội đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành. Việc một tổ chức công đoàn bị xử lý theo pháp luật hay việc một cán bộ công đoàn phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi vi phạm pháp luật lao động sẽ là bình thường. Thứ tư, để đảm bảo bắt kịp và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của quan hệ lao động với tính chất và nội dung mới hiện nay.
