Đề tài Tình huống hình sự- Chứng minh đồng phạm và xác định lỗi

  • Người chia sẻ :
  • Số trang : 3 trang
  • Lượt xem : 8
  • Lượt tải : 500
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình huống hình sự- Chứng minh đồng phạm và xác định lỗi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD LUẬN VĂN ở trên

Hành vi phạm tội của C, D là hành vi không hành động phạm tội. Trong luật Hình sự, hành vi được hiểu là những “ biểu hiện” của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt được mục đích có chủ định và mong muốn. Hành vi không hành động phạm tội là một hình thức thể hiện của hành vi. Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Qua nghiên cứu tình huống trên ta thấy hành vi của C, D thỏa mãn đủ điều kiện của hành vi không hành động phạm tội: – Người đó phải có nghĩa vụ hành động: Việc cứu giúp A, B không chỉ là việc mang tính nhân đạo mà còn mang tính pháp lí, buộc không chỉ C, D mà bất kì những người nào trong hoàn cảnh của C, D đều phải làm. Nghĩa vụ này phát sinh do pháp luật quy định: việc cứu giúp A, B là trường hợp cụ thể đã được pháp luật khái quát quy định trong điều 102 Bộ luật Hình sự: “ Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm”. Khoản 1Điều 102 BLHS quy định: “ Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ hai tháng đến ba năm”